Tài liệu Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Khắc phục những xung đột và lỗ hổng trong pháp luật




    Gần đây, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta những năm qua cho thấy còn tồn tại hiện tượng nhiều quy phạm pháp luật (QPPL) trong một số văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí phủ định lẫn nhau hoặc trái với Hiến pháp (khoa học pháp lý gọi là xung đột trong pháp luật). Ngoài ra còn có những quan hệ xã hội đang tồn tại và phát triển mà không có QPPL điều chỉnh (gọi là lỗ hổng trong pháp luật). Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chúng tôi đề cập một số vấn đề về phương diện lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm của nước ngoài trong việc giải quyết các xung đột, lỗ hổng trong pháp luật ở nước ta hiện nay.


    1. Vấn đề xung đột trong pháp luật




    Có thể nói, trong lý luận và thực tiễn pháp luật chúng ta thường dùng các thuật ngữ và khái niệm như: mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sót mà không gọi là xung đột và lỗ hổng trong pháp luật. Trên thực tế, khoa học pháp lý nước ta chưa có những nghiên cứu đầy đủ và chính xác về hai vấn đề này. Trong khi đó, vấn đề xung đột và lỗ hổng trong pháp luật đã được ghi nhận và nghiên cứu tương đối sâu trong khoa học pháp lý hiện đại của các nước trên thế giới.


    Xung đột trong pháp luật là “sự bất đồng hoặc mâu thuẫn giữa các quy phạm, các VBQPPL riêng lẻ cùng điều chỉnh một hoặc nhiều quan hệ xã hội, mà sự mâu thuẫn đó được xuất hiện trong quá trình áp dụng và thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền”1.

    Từ khái niệm trên, người ta chia các loại xung đột trong pháp luật thành các nhóm sau: xung đột giữa các QPPL với nhau trong cùng một văn bản pháp luật; xung đột giữa các VBQPPL điều chỉnh những quan hệ xã hội cùng nhóm hoặc trong cùng một lĩnh vực nhất định (sự mâu thuẫn giữa các VBQPPL của hệ thống pháp luật chuyên ngành); xung đột giữa thẩm quyền ban hành và áp dụng luật của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước; xung đột nội dung trong các văn bản giải thích luật; xung đột giữa các nguyên tắc, thủ tục pháp lý trong áp dụng luật; xung đột giữa các quy định của pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.


    Với những vấn đề trên thì nội hàm của xung đột trong pháp luật đã được tiếp cận rộng hơn, bao trùm cả vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo trong một văn bản, trong hệ thống các văn bản của từng ngành luật, từng lĩnh vực quản lý cụ thể với nhau và giữa văn bản pháp luật quốc gia với văn bản pháp luật quốc tế.


    Trên thực tiễn, đa số những xung đột trong pháp luật nhà nước ta hiện nay thường phổ biến ở những dạng sau:


    Thứ nhất, một số VBQPPL trong cùng một ngành luật có sự xung đột (mâu thuẫn) về thẩm quyền của người thi hành và áp dụng luật. Ví dụ, theo quy định tại khoản 3, Điều 25 và điểm c, khoản 1, Điều 31 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân (TAND) năm 2002 và Nghị quyết số 56/2002/QH10 ngày 02/4/2002 về việc thi hành Luật Tổ chức TAND và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002 thì những người sau đây: Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án các cấp; Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án cấp huyện theo quy định của pháp luật tố tụng. Thế nhưng, Điều 68 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ban hành năm 1996 quy định ngoài những người có thẩm quyền nêu

    trên thì các Phó Chánh án TAND tối cao, các Phó Viện trưởng VKSND tối cao cũng có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Như vậy, quy định trong pháp lệnh này không thống nhất với quy định trong các luật tổ chức nói trên. Với nguyên tắc luật cao hơn pháp lệnh, các luật sẽ được áp dụng trong trường hợp này nhưng đây vẫn là điều bất hợp lý khi nó tồn tại suốt bốn năm liền mới được bãi bỏ bằng Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 cho phù hợp với luật.


    Thứ hai, giữa một số quy phạm của các văn bản luật với quy phạm của văn bản dưới luật xung đột về đối tượng điều chỉnh. Ví dụ, Điều 29 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh. Nếu chết trước khi sinh hoặc sinh ra mà chết ngay thì không phải khai sinh, khai tử (Điều 30). Cách quy định này giống quy định của BLDS năm 1995. Tuy nhiên, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ban hành ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (hiện nay vẫn còn hiệu lực) tại Điều 20 quy định: trẻ em sinh ra mà sống chưa được 24h thì không phải khai sinh. Như vậy, quy phạm trong Nghị định đã thể hiện sự xung đột đến mức phủ định quy phạm của BLDS hiện hành2. Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sau khi sinh 24h mà chết thì không cần phải khai sinh. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đã là quyền của một con người thì pháp luật phải bảo đảm mà không phân biệt thời gian người đó sống dài hay ngắn. Vì vậy, quyền khai sinh của đứa trẻ trong trường hợp này vẫn phải được pháp luật bảo đảm. Và dĩ nhiên, quy định của Nghị định phủ định quy định của lụật là không thể chấp nhận được. Nhưng đáng tiếc là trên thực tế người ta thường áp dụng nghị định mà ít áp dụng luật.


    Thứ ba, việc sử dụng một số thuật ngữ pháp lý không rõ ràng, thống nhất. Ví dụ, Khoản 2, Điều 69 của Bộ luật Hình sự quy định “người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn ”. Trong khi đó, Điều 8 của Bộ luật

    Hình sự lại quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội Trong khi đó, luật không giải thích thế nào là “gây hại không lớn” và cùng với cách quy định khái niệm tội phạm nêu trên, nên khoản 2, Điều 69 được các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng rất khác nhau.


    Trên đây chỉ là một vài ví dụ điển hình về tình trạng xung đột trong pháp luật nước ta hiện nay. Chúng tôi cho rằng, nếu có một cuộc tổng điều tra để rà soát kỹ toàn bộ hệ thống VBQPPL sẽ thấy rất rõ tính chất, mức độ của sự xung đột trong pháp luật hiện hành ở nước ta.


    2. Vấn đề lỗ hổng trong pháp luật
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...