Báo Cáo Kết quả Nghiên cứu đặc điểm hình thái , sinh học của mọt đục quả cà phê Stephanoderes hampei Ferrier

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kết quả Nghiên cứu đặc điểm hình thái , sinh học của mọt đục quả cà phê Stephanoderes hampei Ferriere (Coleoptera : Scolytidae)


    Study on morphological and biological characteristics of the coffee berry borer
    Stephanoderes hampei Ferriere (Coleoptera: Scolytidae)


    summary
    An investigation was carried out to examine the morphological and biological characteristics of the coffee berry borer Stephanoderes hampei Ferriere occurring in Son La province. Stephanoderes hampei Ferriere is a holometaboluos insect. Their developmental stages include egg, first and second instar larvae, pupae and adult. Stephanoderes hampei Ferr is a key insect pest of Arabica coffee (Coffea arabica. L.) in Son La Province. The life cycle of Stephanoderes hampei Ferr lasts 44,68±0.33 days at temperature 25°C and humidity 83%; 35,10± 0,29 days at temperature 30°C and humidity 83%.
    The damage caused by Stephanoderes hampei Ferr was higher in mature fruits compared with the young ones, particularly 112-154 days after fruit set.


    Key words: Coffee berry borer (Stephanoderes hampei Ferriere), morphological, biological characteristics, life cycle.


    1. Đặt vấn đề
    Mọt đục quả cà phê Stephanoderes hampei Ferr, tên gọi khác là Hyphothenemus hampei (Ferrarri, 1987) thuộc họ Scolytidae, bộ Coleoptra. Chúng thường xuất hiện và gây hại nặng trên cà phê thời kỳ kinh doanh, đặc biệt giai đoạn quả chín trên những vườn cây rậm rạp không được đốn tạo, sửa tán. Nếu không được phát hiện và phòng trừ kịp thời sẽ làm giảm năng suất và phẩm chất cà phê một cách đáng kể (Tôn Nữ Tuấn Nam & cs, 1997).
    Mọt đục quả được phát hiện trên cà phê chè ở các tỉnh phía Bắc, Việt Nam từ những năm 1990 – 1994 (Trần Huy Thọ, 1994). Tuy nhiên, các nghiên cứu về mọt đục quả cà phê chưa được quan tâm nhiều và tiến hành một cách hệ thống. Để có thêm dẫn liệu về mọt đục quả cà phê, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học của mọt đục quả cà phê Stephanoderes hampei Ferr tại Sơn La. Đây là cơ sở để xây dựng và thực hiện biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây cà phê nhằm đạt hiệu quả kinh tế và môi trường (Hà Quang Hùng, 1998).
    2. Phư¬ng ph¸p nghiên cứu
    Tiến hành thu nhặt những quả cà phê còn sót lại trên cây, rơi rụng trên vườn sau vụ thu hoạch tại Hua La, tỉnh Sơn La, sau đó đưa về phòng thí nghiệm nhân nuôi theo phương pháp nhân nuôi cá thể (Viện BVTV- 1998, cục BVTV 1995, TCN .Bộ NN & PTNT 2001, T.Lewis 1973) bằng cách thả trưởng thành vào những hộp nhựa chứa những quả cà phê chưa bị mọt đục, để nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học của mọt đục quả cà phê. Hàng ngày lấy quả cà phê đã tiếp xúc với mọt để quan sát dưới kính lúp soi nổi, đo đếm, ghi chép, chụp ảnh kích thước các pha phát dục, đồng thời tính thời gian phát dục trứng đến sâu non (tuổi 1, 2) nhộng và trưởng thành trong điều kiện nhiệt độ, ầm
    độ trung bình của phòng thí nghiệm sinh thái côn trùng, Bộ môn Côn trùng, ĐH NNI.
    Để thấy rõ hơn về thời gian phát dục các pha của mọt Stephanoderes hampei, các quả cà phê
    được bóc tách trong 45 ngày, mỗi ngày 20 quả cà phê (quả thu từ Hua La - Sơn La ngày 28 tháng 2


    năm 2005) trong điều kiện nhiệt độ phòng thí nghiệm. Đếm số lượng các pha phát dục của mọt, dựa vào cao điểm của các pha có thể tính được thời gian phát dục các pha một cách gián tiếp và so sánh với vòng đời nuôi ở 300C. Phân tích mẫu vật theo phương pháp của Cục BVTV (1995, 1998).
    Tiến hành thử nghiệm tính gây hại của mọt trên quả cà phê ở 5 độ tuổi khác nhau: 42 ngày tuổi, 63 ngày tuổi, 84 ngày tuổi, 112 ngày tuổi và quả chín (154 ngày tuổi ) để tìm hiểu mối liên quan giữa tuổi quả cà phê quan hệ và tỷ lệ mọt đục. Mỗi độ tuổi cho 50 quả vào hộp nhựa, sau đó thả 100 mọt trưởng thành vào hộp chứa mẫu. Sau một tuần kiểm tra, theo dõi các quả bị mọt đục.
    3. Kết qu¶ vµ th¶o luËn
    3.1. Đặc điểm hình thái của mọt đục quả cà phê (Stephanoderes hampei Ferr).
    Mọt đục quả cà phê là côn trùng thuộc dạng biến thái hoàn toàn, trải qua các pha: Trứng, sâu non (tuổi 1, tuổi 2), nhộng, trưởng thành. Đặc điểm hình thái của mọt đục quả cà phê được quan sát dưới kính lúp soi nổi. Kết quả phân tích những đặc điểm các pha thể hiện ở bảng 1 và hình 1.
    - Trứng: Có hình elíp, mới đẻ giữa quả trứng có màu trắng sữa, hai đầu có màu trắng trong và bóng, khi sắp nở có màu trắng sữa. Trứng được đẻ trong nội nhũ hạt cà phê.
    - Sâu non có 2 tuổi, cơ thể cong hình chữ C, màu trắng, bóng, chân kém phát triển, trên cơ thể có các lông trắng dài và thưa, đầu màu nâu, ngực có 3 đốt, bụng có 9 đốt, phần phụ miệng rất phát triển. Sâu non cái có hai gai giao phối rất rõ ở phía cuối bụng. Kích thước của sâu non tuổi 2 lớn hơn rất nhiều so với sâu non tuổi 1 (khoảng 1,5 lần).


    Bảng 1. Kích thước các pha phát dục của mọt đục quả cà phê
    (Stephanoderes hampei Ferr) (n=30)
    Chiều dài (mm) Chiều rộng (mm)
    Pha phát dục


    Trứng


    Sâu non




    Nhộng


    Trưởng Thành






    - Nhộng: Mới hoá nhộng có màu trắng sữa và bóng, hàm trên, mắt, râu đầu, cánh cứng, cánh màng đều phân biệt rất rõ, có thể nhìn thấy được. 1-2 ngày trước vũ hoá cơ thể chuyển màu vàng, mầm cánh chuyển màu đen. Nhộng đực nhỏ hơn rất nhiều so với nhộng cái.
    - Trưởng thành: Mới vũ hoá cơ thể có màu nâu vàng, sau một vài ngày mặt lưng cơ thể có màu
    đen, mặt bụng và chân có màu nâu vàng, có nhiều lông cứng mọc trên cánh cứng. Roi râu đầu có 5
    đốt, phình to hình chuỳ. Con đực có cánh màng bị thoái hoá nên không bay được, cơ thể nhỏ, kém phát triển. Kích thước trung bình cơ thể ở con đực và con cái là rất khác nhau, có thể dễ dàng phân biệt. Về màu sắc: Mọt trưởng thành có mặt lưng màu đen, bóng và chân có màu nâu vàng.
    3.2. Vòng đời và thời gian phát dục các pha của mọt S. hampei Ferr ở điều kiện nhiệt độ 250C
    và 300C, ẩm độ trung bình 83%.
    Vòng đời là chỉ tiêu quan trọng phục vụ cho công tác phòng trừ. Vòng đời của mọt càng ngắn thì tốc độ phát triển của mọt càng nhanh, khi điều kiện thuận lợi mọt dễ phát triển thành dịch và gây hại lớn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...