Luận Văn Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở việt nam hiện nay

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Dùng pháp luật hoặc đạo đức để cai trị đã trở thành thuật trị nước, an dân từ ngàn xưa của các nhà nước. Dưới mỗi triều đại, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội đặc thù của mình mà các giai cấp cầm quyền lựa chọn một phương thức quản lý nhà nước thích hợp, hiệu quả, đó có thể là đức trị (quản lý xã hội bằng đạo đức), là pháp trị (quản lý xã hội bằng pháp luật) hoặc kết hợp cả hai phương thức đó.
    Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Phật giáo, Nho giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật còn bị xem nhẹ. Chính vì vậy, đạo đức giữ vai trò to lớn trong điều chỉnh các QHXH. Cùng với nền văn hóa lúa nước: tương thân, tương ái, đoàn kết, nhân hòa, khoan dung, trọng nghĩa . hàng loạt QHXH đã được điều chỉnh bằng hệ thống quy phạm đạo đức. Có thể nói, đạo đức đã len lỏi đến từng mối QHXH, thấm đẫm trong tư tưởng đối nhân xử thế của người Phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Khi các QHXH ngày càng phát triển đa dạng và phong phú thì bên cạnh việc sử dụng các chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh xã hội, các triều đại phong kiến đã từng bước để ý đến việc xây dựng pháp luật nhằm thể chế hóa những chuẩn mực đạo đức làm công cụ để điều chỉnh QHXH mang tính công quyền. Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, chúng ta đặc biệt ghi nhận vai trò của triều Lê (Tiền Lê) với đại biểu Lê Thánh Tông (1442-1497) – Người đã kết hợp nhuần nhuyễn đạo đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình.
    Bước sang thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo và hà khắc của pháp luật đô hộ lại càng làm nhân dân có chung tâm lý xa luật, sợ luật bởi sự bóc lột và khai thác kiệt quệ sức người, sức của, bởi sự bất bình đẳng giữa địa vị của người mất nước và kẻ cướp nước. Đó là thứ pháp luật thống trị, xa rời những giá trị nhân văn bảo vệ quyền con người và tất yếu nó bị nhân dân phản đối.
    Bước ngoặt có tính lịch sử của thuật dựng nước, giữ nước, xây dựng đất nước phồn thịnh bằng pháp luật gắn liền với công lao và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người, đi tìm con đường giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân cũng đồng thời là quá trình nhận thức, khẳng định vai trò, giá trị của pháp luật trong dựng nước và giữ nước. Song, chính Người cũng là điển hình mẫu mực trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo đức. Quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng phát huy tối đa vai trò của đạo đức trong xây dựng đời sống mới. Đạo đức công dân giúp cho mỗi người tự giác nhận thức, tôn trọng và thực hiện pháp luật. Đạo đức công chức góp phần ngăn chặn sự thoái hóa của người thực thi quyền lực nhà nước. Đặc biệt, đạo đức XHCN chính là cơ sở xây dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam . Tư tưởng hiến trị, pháp trị kết hợp với đạo đức của Người là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển không ngừng của hệ thống pháp luật XHCN ở Việt Nam hiện nay.
    Tại Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992) khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức"[9, tr.13].
    Xây dựng NNPQ là nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Song không nên đề cao một chiều đến mức tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật, coi pháp luật là yếu tố duy nhất để điều chỉnh các QHXH, mà bỏ qua vai trò hỗ trợ của các quy tắc xã hội khác như đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp và các quy tắc tôn giáo tiến bộ . Bởi vì pháp luật chỉ tập trung đáp ứng được trong điều chỉnh những QHXH cơ bản và quan trọng liên quan tới lợi ích và vận mệnh của toàn bộ quốc gia. Đạo đức và các quy tắc xã hội khác sẽ bổ sung và lấp vào các khoảng trống trong các QHXH mà pháp luật chưa vươn tới được. Ở mối quan hệ này ta thấy, trong pháp luật phải có đạo đức, thiếu đạo đức, pháp luật xơ cứng và khó có thể thực hiện trong đời sống thực tế bằng sự tự giác, bằng niềm tin, khó có thể đạt tới chuẩn mực của "văn hóa pháp lý". Trong đạo đức cũng phải có pháp luật, thiếu pháp luật đạo đức mất sự định hướng để phát triển các giá trị bên trong của mình, mất đi sự bảo hộ cho các chuẩn mực đạo đức tồn tại và phát triển lâu bền.
    Những năm gần đây, hàng loạt các văn bản pháp luật của nhà nước đã thể hiện sự pháp luật hóa những giá trị đạo đức thành chuẩn mực pháp luật để điều chỉnh những quan hệ phát triển không ngừng của đời sống xã hội như Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Luật Lao động (2002), Pháp lệnh cán bộ công chức (2003), Luật Dân sự (2005) . Bên cạnh đó, sự thừa nhận và khuyến khích của nhà nước đối với xây dựng hương ước mới, xây dựng bảo tồn những phong tục tập quán có ý nghĩa trong hình thành và phát triển nhân cách con người mới lại một lần nữa thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của nhà nước về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Có thể thấy giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ chặt chẽ qua lại với nhau.
    Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về "Đẩy mạnh nghiên cứu tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới" là một bằng chứng hết sức sâu sắc và rõ ràng trong việc Đảng và Nhà nước nhận định vai trò to lớn của sự kết hợp giữa pháp luật với đạo đức khi xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
     
Đang tải...