Luận Văn Kế toán tiêu thụ hàng hoá và XĐKQ tiêu htụ tại Công ty TNHH Phú Thái

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kế toán tiêu thụ hàng hoá và XĐKQ tiêu htụ tại Công ty TNHH Phú Thái


    PHẦN THỨ NHẤT

    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ
    HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ Ở CÁC
    DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

    1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

    1.1.1.Đặc điểm chung về hoạt động thương mại
    Thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản suất với tiêu dùng. Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hay giữa thương nhân với các bên có liên quan bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hay thực hiện chính sách kinh tế xã hội.
    Thương nhân có thể là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hay các hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quyết định của pháp luật ( được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Kinh doanh thương mại có một số đặc điểm chủ yếu sau:
    * Đặc điểm về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản của kinh doanh thương mại là lưu chuyển hàng hoá. Lưu chuyển hàng hoá là sự tổng hợp các hoạt động thuộc các quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá.
    * Đặc điểm về hàng hoá: Hàng hoá trong kinh doanh thương mại gồm các loại vật tư, sản phẩm có hình thái vật chất cụ thể hay không có hình thái vật chất mà doanh nghiệp mua về với mục đích để bán.
    * Đặc điểm về phương thức lưu chuyển hàng hoá: Lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương mại có thể theo một trong hai phương thức là bán buôn và bán lẻ.
    - Bán buôn hàng hoá: Là bán cho người kinh doanh trung gian chứ không bán thẳng cho người tiêu dùng.
    - Bán lẻ hàng hoá: Là việc bán thẳng cho người tiêu dùng trực tiếp, từng cái từng ít một.
    * Đặc điểm về tổ chức kinh doanh: Tổ chức kinh doanh thương mại có thể theo nhiều mô hình khác nhau như tổ chức công ty bán buôn, bán lẻ, công ty kinh doanh tổng hợp, công ty môi giới, công ty xúc tiến thương mại.
    * Đặc điểm về sự vận động của hàng hoá: Sự vận động của hàng hoá trong kinh doanh thương mại cũng không giống nhau, tuỳ thuộc vào nguồn hàng, nghành hàng, do đó chi phí thu mua và thời gian lưu chuyển hàng hoá cũng khác nhau giữa các loại hàng hoá.
    Như vậy chức năng của thương mại là tổ chức và thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
    1.1.2.Khái niệm tiêu thụ hàng hoá, thời điểm xác nhận doanh thu tiêu thụ.
    Tiêu thụ hàng hoá là quá trình các Doanh nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn sản xuất kinh doanh của mình từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và hình thành kết quả tiêu thụ, đây là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
    Theo một định nghĩa khác thì tiêu thụ hàng hoá, lao vụ, dịch vụ là việc chuyển quyền sở hữu sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền hàng hoá.
    Như vậy, tiêu thụ là thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng, đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Tiêu thụ là khâu lưu thông hàng hoá là cầu nối trung gian giữa một bên sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì tiêu thụ được hiểu theo nghĩa rộng hơn: Tiêu thụ là quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, tổ chức mua hàng hoá và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
    Thời điểm xác định doanh thu hàng hoá là thời điểm mà Doanh ngiệp thực sự mất quyền sở hữu hàng hoá đó và người mua thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Khi đó mới xác định là tiêu thụ, mới được ghi doanh thu .
    1.1.3. Các chỉ tiêu xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp thương mại
    Kết quả tiêu thụ hàng hoá là chỉ tiêu hiệu qủa hoạt động lưu chuyển hàng hóa. Cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ: Kết quả tiêu thụ cũng được phản ánh và xác định qua các chỉ tiêu sau:
    1.1.3.1. Tổng doanh thu bán hàng
    Doanh thu bán hàng là doanh thu của khối lượng sản phẩm hàng hoá đã bán, dịch vụ đã cung cấp được xác định là tiêu thụ trong kỳ và số tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia.
    Doanh nghiệp phải mở sổ chi tiết để theo dõi chi tiết các khoản doanh thu :
    - Doanh thu bán hàng hoá
    - Doanh thu cung cấp dịch vụ
    - Doanh thu tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia.
    1.1.3.2. Các khoản giảm trừ doanh thu
    Chiết khấu thương mại: Là khoản chiết khấu cho khách hàng mua với số lượng lớn.
    Hàng bán bị trả lại:Là giá trị của số sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do những nguyên nhân vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng kinh tế: Hàng hoá bị mất, kém phẩm chất, không đúng chủng loại, quy cách.
    Giảm giá hàng bán: Là khoản giảm trừ được người bán chấp thuận một cách đặc biệt trên giá đã thoả thuận vì lý do hàng bán ra kém phẩm chất hay không đúng quy cách theo quy định trên hợp đồng kinh tế.
    1.1.3.3.Doanh thu thuần về tiêu thụ
    Là số chênh lệch giữa tổng doanh thu về tiêu thụ với các khoản giảm trừ doanh thu : chiết khấu thương mại, doanh thu hàng bán trả lại, các khoản giảm giá hàng bán.
    Doanh thu thuần về tiêu thụ được xác định theo công thức sau:
    Doanh thu thuần về tiêu thụ = Tổng doanh thu tiêu thụ - Chiết khấu thương mại - Giảm giá hàng bán - Doanh thu hàng bán trả lại
    1.1.3.4. Giá vốn hàng bán
    Giá vốn hàng bán phản ánh giá trị gốc của hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ, lao vụ đã thực sự tiêu thụ trong kỳ, ý nghĩa của giá vốn hàng bán chỉ được sử dụng khi xuất kho hàng bán và tiêu thụ. Khi hàng hoá đã tiêu thụ và được phép xác định doanh thu thì đồng thời giá trị hàng xuất kho cũng được phản ánh theo giá vốn hàng bán để xác định kết quả. Do vậy xác định đúng giá vốn hàng bán có ý nghĩa quan trọng vì từ đó Doanh nghiệp xác định đúng kết quả kinh doanh.Và đối với các Doanh nghiệp thương mại thì còn giúp cho các nhà quản lý đánh giá được khâu mua hàng có hiệu quả hay không để từ đó tiết kiệm chi phí thu mua.
    Doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp sau để xác định trị giá vốn của hàng xuất kho:
    * Phương pháp đơn giá bình quân: Theo phương pháp này, giá thực tế của hàng xuất kho trong kỳ được tính theo công thức:
    Giá thực tế hàng
    xuất kho = Số lượng hàng hoá
    xuất kho * Giá đơn vị bình quân
    Khi sử dụng giá đơn vị bình quân, có thể sử dụng dưới 3 dạng:
    - Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ: Giá này được xác định sau khi kết thúc kỳ hạch toán nên có thể ảnh hưởng đến công tác quyết toán.



    Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ = Trị giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
    Số lượng hàng thực tế tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
    - Giá đơn vị bình quân của kỳ trước: Trị giá thực tế của hàng xuất dùng kỳ này sẽ tính theo giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước.Phương pháp này đơn giản dễ làm, đảm bảo tính kịp thời của số liệu kế toán , mặc dầu độ chính chưa cao vì không tính đến sự biến động của giá cả kỳ này.
    Giá bình quân của kỳ trước = Trị giá tồn kỳ trước
    Số lượng tồn kỳ trước
    - Giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập: Phương pháp này vừa đảm bảo tính kịp thời của số liệu kế toán , vừa phản ánh được tình hình biến động của giá cả. Tuy nhiên khối lượng tính toán lớn bởi vì cứ sau mỗi lần nhập kho, kế toán lại phải tiến hành tính toán.
    * Phương pháp nhập trước – xuất trước
    Theo phương pháp này,giả thuyết rằng số hàng nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết số hàng nhập trước thì mới xuất số nhập sau theo giá thực tế của số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của hàng mua trước sẽ được dùng làm gía để tính giá thực tế của hàng xuất trước và do vậy giá trị hàng tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng mua vào sau cùng.
    * Phương pháp nhập sau – xuất trước: Phương pháp này giả định những hàng mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước xuất trước.
    * Phương pháp giá hạch toán
    Khi áp dụng phương pháp này, toàn bộ hàng biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán. Cuối kỳ, kế toán phải tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:
    Giá thực tế của hàng xuất dùng trong kỳ = Giá hạch toán của hàng xuất dùng trong kỳ * Hệ số giá
    Trong đó:
    Hệ số giá = Giá thực tế của hàng tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ
    Giá hạch toán của hàng tồn kho đầu kỳ và nhập trong kỳ
    * Phương pháp giá thực tế đích danh:
    Theo phương pháp này, hàng được xác định theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng. Khi xuất hàng nào sẽ tính theo giá thực tế của hàng đó.
     
Đang tải...