Luận Văn Kế toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại công ty Xi Măng Sài Sơn

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kế toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại Cty Xi Măng Sài Sơn


    PHẦN I LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG

    I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC THANH VỚI CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN.
    1. KHÁI NIỆM VỀ TIỀN LƯƠNG.
    Nền sản xuất xã hội được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản đó là lao động, đối tượng lao động, tư liêu lao động trong đó lao động là yếu tố quan trọng nhất bởi nó mang tính chủ động và quyết định, Người lao động bỏ sức lao động của mình để kết hợp với tư liệu lao động lênn đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Khi đó họ sẽ nhận được ở gnười củ của mình một khoản thù lao để tái sản xuất sức lao động. Khoản thù lao này chính là tiền lương.
    Tuy nhiên dướu mỗi chế độ chính trị xã hội thì có những quan điểm khác nhau về tiền lương.
    Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, sở hữu toàn dân do vậy quy luật cung cầu thị trường không còn tồn tại, tiền lương được hiểu như một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch cho người lao động phù hợp với số lượng và chất lượng của mỗi người như vây tiền lương không còn giá trị cảu sức lao động.
    Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động đã trở thành hàng hoá, người có sức lao động có thể tự do thuê bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao động: Nhà nước, chủ doanh nghiệp .) thông qua các hợp đồng lao động. Sau quá trình làm việc chủ doanh nghiệp trả cho họ một khoản tiền lương thường xuyên liên quan chặt chẽ với kết quả lao động của người đó. Do đó tiền lương thường xuyên biến động xoay quanh giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao động trả cho người cung ứng lao động tuân theo quy luật cung cầu của thị trường và pháp luật của nhà nước.
    Ở Việt Nam, trong suốt giai đoạn dài cơ chế bao cấp, tiền lương không được coi là giá trị của sức lao động. Từ khi chúgn ta đổi mới sang cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần, sức lao động mới được coi là hàng hoá và tiền lương được hiểu được hiểu theo đúng với bản chất của nó.
    2. VAI TRÒ CỦA TIÊN LƯƠNG.
    Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố cơ bản (lao động, đối tượng lao động, tư liệu lao động) trong đó yếu tố lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người, sử dụng các tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động biến các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích cho nhu cầu của con người. Để đảm bảo quá trình tái sản xuất trước hết phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bù đắp dưới dạng thù lao lao động. Tiên lương (Tiền công) chính là phần thù lao lao động được thể hiện bằng tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng, chất lượng công việc của họ.
    Về bản chất tiên lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá cả sức lao động.
    Mặt khác, tiên lương còn là đòn bẩy kinh tế đê khuyến khích tinh thần hăng hái lao động kích thích người lao động quan tâm đến kết quả lao động của họ. Nói cách khác tiên lương chính là nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
    Tiên lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Người lao động dùng tiên lương để trang chải và tích luỹ sẽ tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp yên tâm phấn khởi làm việc, thực hiện dân giầu nước mạnh. Ngược lại, sẽ làm cho mức sống của họ giảm sút kinh tế gặp khó khăn.
    Tiên lương không chỉ ảnh hưởng đến tâm tư của người lao động với doanh nghiệp mà còn đối với xã hội. Nếu tiền lương cao sẽ ảnh hưởng tích cực ngược lại họ sẽ không tha thiết với doanh nghiệp chán nản công việc, có thể nói tiền lương là một nhân tố động nhất, cách mạng nhất.
    Vai trò của tiền lương còn được thể hiện thông qua việc thực hiện chức năng của tiền lương, tiền lương nhằm bảo đảm đủ chi phí để tái sản xuất sức lao động đây cũng là yêu cầu thấp nhất của tiền lương phải nuôi sống người lao động duy trì sức lao động của họ. Bảo đảm vai trò kích thích của tiền lương vì sự thúc ép của tiền lương khiến người lao động phải say mê nghề nghiệp. Vì được lĩnh đồng lương người lao động tự thấy phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt cả về kiến thức lý luận kỹ năng kỹ xảo chịu khó tìm tòi học hỏi và rút kinh nghiệp. Bảo đảm vai trò điều phối lao động tiền lương, với tiền lương lao động thoả đáng người lao động tự nguyện nhận mọi công việc được giao dù ở đâu làm gì (Công việc độc hại, nguy hiểm khó khăn) hay bất kỳ khi nào (đầu giờ, giữa giờ, cuối giờ thậm chí người giờ làm việc. Vai trò quản lý lao động của tiền lương , doanh nghiệp sử dụng công cụ tiền lương không chỉ với mục đích tạo điều kiện vật chất chi người lao động mà với mục đích thông qua việc trả lương để kiểm tra theo dõi giám sát người lao động làm việc theo ý đồ của mình, bảo đảm tiền lương chi ra phải đem lại kết quả và hiệu quả rõ rệt.
    3. PHÂN LOẠI TIỀN LƯƠNG.
    Theo chế độ hiện nay quỹ lương của các xí nghiệp là toàn bộ tiền lương phải trả cho tất cả các loại lao động trong biên chế và lao động ngoài biên chế.
    Về hạch toán quỹ tiền lương được chia thành hai loại:
    + Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho cán bộ công nhân viên trong thời gian thực tế có làm việc theo nghĩa vụ quy định như tiền lương cấp bậc,c ác khoản phụ câps kèm theo lương như( phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp độc hại )
    + Tiền lương lương phụ:
    Là tiền thưởng trả cho cán bộ công nhân viên trong thời gian làm nhiệm vụ chíh nhưng vẫn được hưởng theo chế độ quy định như tiền lương nghỉ phép, tiền thưởng trong thời gian ngừng việc hoặc huy động nghĩa vụ xã hội như rèn luyện tập quân sự, học tập. Việc phân chia quỹ tiền lương như trên có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm. Tiền lương chính của công nhân viên sản xuất gắn liền với quá trình sản xuất ra sản phẩm và hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất từng loại sản phẩm. Tiền lương phụ của họ không gắn liền với từng loại sản phẩm nên được hạc toán tập hợp chi phí sản xuất trên cơ sở đó đẻ xác định và tính toán chính xác chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm, trong chi phí quản lý.
    II. CÁC HÌNH THỨC TRẢ TIỀN LƯƠNG.
    Mục đích của chế độ tiền lương là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thực tế các doanh nghiệp thường áp dụng các chế độ ( hình thức) tiền lương theo thời gian tiền lương theo sản phẩm và tiền lương khoán.
    1. TRẢ TIỀN LƯƠNG THEO THỜI GIAN
    - Trả lương theo thời gian là hình thức chi trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế.
    - Tiền lương theo thời gian được chia ra:
    + Tiền lương tháng: Là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động.
    + Tiền lương tuần: Là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở bằng tiền lương tháng nhân với 12tháng chia cho 52.8 tuần.
    + Tiền lương ngày là tiền lương trả cho một ngày làm việc được xác định bằng cách lấy tiền lương tháng chia cho 22 ngày.
     
Đang tải...