Luận Văn Kế toán thuế giá trị gia tăng giá trị gia tăng

Thảo luận trong 'Thuế - Hải Quan' bắt đầu bởi Bống Hà, 4/4/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NỘI DUNG

    I. HỆ THỐNG HÓA CƠ SỞ Lí LUẬN VỀ THUẾ GTGT
    1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ GTGT

    Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu áp dụng từ sau đại chiến thế giới lần thứ 1 ( 1914- 1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng rói của người dân cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước .Thuế doanh thu được áp dụng từ pháp (1917) tuy nhiên có tính chất trùng lặp trong việc đánh thuế .Vỡ vậy đến năm 1954 chính phủ PHÁP đó ban hành loại thuế mới với tờn gọi là giỏ trị gia tăng nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực sản xuất khai sinh từ pháp thuế giá trị gia tăng đó nhanh chúng được áp dụng rộng rói trờn thế giới trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước đến nay đó cú trờn 100 nước áp dụng luật thuế này chủ yếu là các nước CHÂU PHI , CHÂU MỸ LA TINH , các nước trong khối cộng động CHÂU ÂU , và một số nước CHÂU Á
    Về tên gọi có nhiều nước gọi là thuế giá trị gia tăng điển hỡnh là PHÁP, ANH, THỤY ĐIỂN, . Một số nước gọi là thuế hàng hóa như CANADA, NIUDILAN, Một số vẫn gọi là thuế doanh thu .HUNGARI là nước XHCN đầu tiên áp dụng loại thuế này từ năm 1988 nước ta được biết đến với luật thuế GTGT năm 1917 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999
    ỉ Bản chất của thuế GTGT
    Theo kế toán PHÁP : thuế GTGT là một loại thuế gián thu tính trên phần giá trị gia tăng của hàng hóa ,dịch vụ sau mỗi lần sản xuất bỏn buụn bỏn lẻ
    Theo luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 đó được quốc hội nước cộng hũa XHCN VN phờ duyệt kỳ họp thứ 11 :Thuế GTGT là thuế tớnh trờn khoản giỏ trị tăng thêm của hàng hóa , dịch vụ phát sinh trong quá trỡnh từ sản xuất , lưu thông đến tiêu dùng
    Như vậy có thể hiểu thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu điển hỡnh cú phạm vi thu thuế rộng , được tính dựa trên giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ chịu thuế không căn cứ vào hỡnh thỏi vật chất cũng như công dụng của sản phẩm , không đánh vào đầu tư vỡ nú nằm ngoài giỏ trị TSCĐ và giá trị sản phẩm hàng hóa dịch vụ .Là một loại thuế có tính trung lập cao vỡ nú khụng trực tiếp điều chỉnh chênh lệch , không can thiệp sâu vào mục đích khuyến khích hay hạn chế kinh doanh
    Ta có thể nhận thấy thuế giá trị gia tăng có điểm khác biệt cơ bản với thuế doanh thu là chỉ người bán hàng( dịch vụ ) lần đầu phải nộp thuế trên toàn bộ doanh thu bán hàng , cũn người bán hàng ở các khâu tiếp theo chỉ phải nộp thuế trên phần giá trị tăng thêm .Nói cách khác thuế GTGT là một sắc thuế duy nhất thu theo phân đoạn chia nhỏ , trong quá trỡnh sản xuất lưu thông hàng hóa từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng khi khép kín 1 chu kỳ kinh tế .Đến cuối kỳ sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính trên giá trị hàng hóa hoặc giá dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng
    Có thể hiểu một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế GTGT là sản phẩm hàng hóa dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng đều chịu thuế như nhau Thuế GTGT không phải do người tiêu dùng trực tiếp nộp mà do người bán sản phẩm hàng hóa sẽ trực tiếp nộp vào kho bạc
    Đây là loại thuế đánh vào các sản phẩm , dịch vụ tiêu thụ trong nước kể cả hàng hóa nhập khẩu , nhưng với hàng hóa dùng cho mục địch xuất khẩu thỡ được hưởng mức thuế suất là 0%
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...