Luận Văn Kế toán tập hợp CPSX & tính giá thành sản phẩm tại công tyThực phẩm Hà Nội

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kế toán tập hợp CPSX & tính GTSP tại CtyThực phẩm Hà Nội
    LỜI NÓI ĐẦU
    Trong xu thế đổi mới chung của cả nước, từ nền kinh tế hàng hoá tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất muốn tồn tại và phát triển nhất định phải có phương án SXKD đạt hiệu quả kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường tất yếu có sự cạnh tranh, cạnh tranh dẫn đến sự sống còn của doanh nghiệp do vậy các doanh nghiệp luôn chủ động bằng các hình thức cụ thể để tiếp cận thị trường, thâm nhập vào thị trường với những sản phẩm của mình. Như vậy sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ sản xuất ngày càng nhiều mà chất lượng phải cao, mẫu mã đẹp, giá thành phải hợp lý cuốn hút người tiêu dùng. Để có giá cả hợp lý đảm bảo có lợi nhuận thì điều kiện kiên quyết là doanh nghiệp phải tìm biện pháp giảm chi phí giá thành sản phẩm.
    Sản phẩm có chất lượng tốt giá thành hạ là tiền đề tích cực giúp doanh nghiệp tiêu thụ thành phẩm, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn, thực hiện đầy đủ ngân sách cho nhà nước đem lại lợi nhuận ngày càng cao. Với mục tiêu SXKD " lấy thu bù chi kinh doanh có lãi " các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để sao cho chi phí đầu vào nhỏ nhất, mang lại lợi nhuận cao nhất, tạo điều kiện đẩy nhanh tích luỹ cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Để đạt được mục tiêu đó, thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất và tính toán chính xác giá thành sản phẩm, thông qua bộ máy kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Thông tin về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sẽ giúp cho các nhà quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp phân tích được tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả hay không, tiết kiệm hay lãng phí, tình hình thực hiện giá thành như thế nào? Từ đó đề ra biện pháp hữu hiệu nhằm hạ thấp chi phí sản xuất, giảm giá thành và đề ra các quyết định phù hợp cho sự phát triển SXKD và yêu cầu quản trị doanh nghiệp . Như vậy giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất để đánh giá chất lượng công tác của doang nghiệp. Nó là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh trình độ, phát triển về mặt kỹ thuật sản xuất, về tổ chức sản xuất, về năng suất lao động của doang nghiệp. Nó phản ánh tình hình sử dụng TSCĐ và vốn lưu động của doanh nghiệp . Vì vậy việc tổ chức tốt công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một yêu cầu tất yếu và luôn là một trong những vấn đề hàng đầu mà các doanh nghiệp cần quan tâm. Xuất phát từ tầm quan trọng đó em đã kiến nghị đi sâu nghiên cứu đề tài " Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm" tại Công ty Thực phẩm HN
    Tại Công ty Thực phẩm đã xác định đúng mức quan trọng của việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Do vậy trong công tác kế toán luôn thực hiện đúng nguyên tắc.
    Mặc dù rất cố gắng và luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy Nguyễn Ngọc Toản và các thầy cô giáo trong bộ môn kế toán cùng với sự giúp đỡ của các anh chị phòng kế toán của Công tyThực phẩm HN. Song vì thời gian thực tập có hạn, với sự nhận thức còn hạn chế nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu xót tồn tại. Em rất mong và xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện tốt hơn.
    Trong đề tài này em xin đưa ra 3 phần chính:
    Phần I: Lý luận về kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
    Phần II: Tình hình tổ chức kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại Công ty Thực phảm HN
    Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành tại Công ty Thực phẩm HN
    PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN
    I. Chi phí sản xuất là những doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất để đáp ứng cho nhu cầu xã hội. Đó là những sản phẩm lao vụ dịch vụ nhằm đáp ứng thị yếu cảu xã hội.
    Để tiến hành hoạt động SXKD, các doanh nghiệp thườnh xuyên bỏ ra các chi phí về các đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động của con người. Đây là các yếu tố cơ bản tạo nên quy trình sản xuất. Tuy nhiên sự tham gia của mỗi yếu tố này vào quá trình sản xuất có sự khác nhau, dẫn đến sự hình thành những chi phí tương ứng như chi phí về nguyên vật liệu ,chi phí nhân công trực tiếp, chi phí khấu hao TSCĐ . toàn bộ những chi phí mà doanh nghiệp chi ra có thể diễn ra trong suốt quá trình kinh doanh. Những chi phí đó bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá, tiền tệ chúng cần được tập hợp dưới hình thức tiền tệ để từ đó chúng ta biết được số chi phí đã bỏ ra trong từng thời kỳ hoạt động là bao nhiêu, nhằm tổng hợp tính toán các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho yêu cầu quản lý.
    Như vậy tại doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh là toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá đã chi ra để tiến hành hoạt động SXKD trong một thời kỳ nhất định biểu hiện bằng tiền.
    2. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất:
    Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau về cả nội dung, tính chất, công dụng vai trò . trong quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu quản lý, chi phí sản xuất được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại theo một số cách sau:
    * Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh
    * Phân loại theo yếu tố chi phí
    * Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
    * Phân loại theo chức năng SXKD
    * Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí
    * Phân loại theo quan hệ của chi phí với khối lượng của công việc, sản phẩm hoàn thành
    3. Gía thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất:
    3.1. Khái niệm: Gía thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của tổng số hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cho đơn vị khối lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, lao vụ nhất định.
    - Gía thành là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản phẩm hàng hoá đó là phạm trù kinh tế khách quan đồng thời có đặc tính chủ quan trong một giới hạn nhất định.
    - Gía thành là một phạm trù kinh tế khách quan bởi sự chuyển dịch giá trị của tư liệu sản xuất và lao động đã hao phí vào sản xuất và sự cần thiết tất yếu.
    - Gía thành còn là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp . Để xem xét việc quản lý giá thành người ta căn cứ vào chỉ tiêu mức hạ giá thành. Thông qua 2 chỉ tiêu này có thể thấy được mức độ sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu , khả năng tận dụng công suất máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang thiết bị áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến kêt quả của sử dụng hợp lý sức lao động và trình độ quản lý kinh tế tài chính , trình độ hạch toán của doanh nghiệp .
    3.2. Bản chất chức năng giá thành:
    Các chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm luôn được biểu hiện ở mặt định tính và định lượng.
    - Mặt định tính của chi phí sản xuất đó là cac yếu tố chi phí hiện vật hay bằng tiền, tiêu hao quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm.
    - Mặt định lượng của chi phí thể hiện mức độ tiêu hao cụ thể của từng loại chi phí tham gia vào quá trình sản xuất, chế tạo, để cấu thành nên sản phẩm biểu hiện bằng thước đo tổng quát và thước đo giá trị.
    Gía thành sản phẩm có 2 chức năng chủ yếu đó là chức năng bù đắp chi phí và chức năng lập giá.
    Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra sẽ hoàn thành một khối lượng sản phẩm công việc lao vụ dịch vụ phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về, tiêu thụ sản phẩm lao vụ.
    Việc bù đắp các chi phí đầu vào đó mới chỉ đảm bảo được quá trình sản xuất đơn giản, mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo trang trải bù đắp mọi chi phí đầu vào của quá trình sản xuất và phải có lãi. Trong cơ chế thị trường giá sản phẩm phụ thuộc vào một phần quy luật cung cầu, vào sự thoả mãn giữa doang nghiệp với khách hàng. Tuy nhiên giá bán sản phẩm lao vụ là biểu hiện giá trị của chúng. Do đó được dựa trên cơ sở giá thành sản phẩm để xác định. Vì vậy sự tồn tại giá thành đơn vị có ý nghĩa và công dụng trong công tác quản lý vĩ mô của doang nghiệp mà trước hết nó là cơ sở để định giá hàng tồn kho trong các báo cáo tài chính , xác định giá trị hàng bán ra để tính lãi, lỗ trong kỳ. Gía thành đơn vị còn giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp , đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả của chi phí .
    3.3. Phân loại giá thành sản phẩm:
    Tuỳ theo yêu cầu quản lý, cùng như tiêu thức phân loại, khác nhau mà giá thành được phân thành các loại tương ứng, căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu để tính giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm được chia thành:
    * Gía thành kế hoạch: là giá thành trích trước khi bắt đầu SXKD của kỳ kế hoạch, căn cứ vào các định mức và dự toán cho phí của ký kế hoạch gía thành là biểu hiện bằng tiền của tổng số các chi phí cầnthiết tính theo định mức và dự tón để sản xuất ra một đơn vị sảm phẩm dịch vụ trong kỳ kế hoạch.
     
Đang tải...