Luận Văn Kế toán , bán hàng & xác định kết quả bán hàng tại công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài : Kế toán , bán hàng & xác định kết quả bán hàng tại Cty kinh doanh nước sạch Hà Nội


    chương 1: lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng trong các doanh nghiệp

    1.1. sự cần thiết phải tổ chức kế toán bán hàng và xác định kết quả
    bán hàng trong các doanh nghiệp

    1.1.1. Bán hàng và vai trò của quá trình bán hàng đối với DN
    Bán hàng là giai đoạn cuối cùng trong quá trình sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Bán hàng có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với mỗi doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
    Trong các doanh nghiệp quá trình tiêu thụ thành phẩm, hàng hoá hay đơn thuần gọi là quá trình bán hàng được hiểu là quá trình trao đổi để thực hiện gía trị của hàng hoá, đây là quá trình chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ (Hàng- Tiền) và hình thành kết quả bán hàng. Trong quá trình đó, một mặt doanh nghiệp giao hàng cho khách và mặt khác khách hàng sẽ trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho doanh nghiệp theo giá cả đã thoả thuận. Như vậy thực chất bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ cho khách hàng và đổi lại doanh nghiệp thu được tiền hoậc nhận được quyền thu tiền từ khách hàng.
    Đối với bản thân các doanh nghiệp có bán được hàng hoá thì mới có thu nhập để bù đắp những chi phí đã bỏ ra và hình thành kết quả bán hàng. Nếu hoạt động bán hàng của doanh nghiệp không thông suốt sẽ làm ngừng trệ các hoạt động khác như sản xuất, mua vào, dự trữ . Còn nếu hoạt động bán hàng của doanh nghiệp trôi chảy sẽ thúc đẩy các hoạt động khác. Vì vậy có thể ví hoạt động bán hàng là tấm gương phản ánh tình hình hoạt động chung của doanh nghiệp. Nếu mở rộng được bán hàng, tăng doanh thu sẽ tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh, củng cố và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, giúp doanh nghiệp đứng vững trong kinh doanh.
    Đối với người tiêu dùng (khách hàng), bán hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Chỉ qua quá trình bán hàng, công dụng của hàng hoá mới được phát huy hoàn toàn. Bên cạnh đó, bán hàng còn góp phần hướng dẫn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Việc thúc đẩy bán hàng ở doanh nghiệp là cơ sở để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ ở các đơn vị kinh tế khác có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp.
    Xét trên phạm vị toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bán hàng là một trong những hoạt động chính của quá trình lưu thông phân phối hàng hoá, bán hàng là hoạt động để thực hiện mục đích của sản xuất là tiêu dùng và là điều kiện để quá trình tái sản xuất xã hội được thực hiện. Ngoài ra bán hàng còn góp phần điều hoà giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng, giữa khả năng và nhu cầu là điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối trong từng ngành,từng vùng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

    1.1.2. Ý nghĩa của kết quả bán hàng đối với DN
    Kết quả bán hàng trong các DN được hiểu là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu bán hàng trong kỳ của DN với các khoản chi phí mà DN đã bỏ ra để có được số doanh thu đó. Nếu doanh thu bán hàng lớn hơn tổng số chi phí đã bỏ ra phục vụ cho việc bán hàng trong một chu kỳ nhất định thì doanh nghiệp có lãi và ngược lại, thu nhập nhỏ hơn chi phí thì doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Kết quả bán hàng là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh tại các DN. Nó là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa quan trọng trong quản lý sản xuát kinh doanh, là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có điều kiện để mở rộng kinh doanh, nâng cao đời sống của cán bộ trong doanh nghiệp, tạo nguồn tích luỹ quan trọng cho nền kinh tế quốc dân
    Bán hàng, với vị trí là khâu cuối cùng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, có mối quan hệ mật thiết với kết quả kinh doanh: bán hàng là cơ sở để xác định kết quả bán hàng, ngược lại xác định kết quả bán hàng là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Có thể nói giữa bán hàng và kết quả bán hàng có mối quan hệ mật thiết; kết quả bán hàng là mục đích cuối cùng của doanh nghiệp, còn bán hàng là “phương tiện” trực tiếp để đạt được mục đích đó.

    1.1.3. Yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng
    Quản lý công tác bán hàng và xác định kết quả bán hàng thực chất là quản lý việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch bán hàng trong từng thời kỳ, đối với từng khách hàng, từng hợp đồng kinh tế. Đó còn là quản lý về số lượng, chất lượng hàng hoá, thời gian tiêu thụ, cơ cấu mặt hàng tiêu thụ, trị giá vốn hàng xuất bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN phân bổ cho hàng bán ra, tình hình thanh toán của khách hàng và thanh toán các khoản phải trích nộp cho ngân sách NN. Các yêu cầu quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng:
    Nắm bắt theo dõi chặt chẽ từng phương thức bán hàng, từng thể thức thanh toán, từng loại thành phẩm tiêu thụ và từng khách hàng đảm bảo thu hồi nhanh và đầy đủ tiền bán hàng. Đối với các khoản giảm trừ phải có qui chế quản lý công khai, đối với các khoản chiết khấu, giảm giá cho số hàng thông thường tiêu thụ trong kỳ phải đảm bảo cho DN có lãi.
    Lựa chọn phương pháp tính trị giá vốn hàng xuất bán phù hợp với điều kiện thực tế của DN, giám sát kiểm tra chặt chẽ tính hợp lý, hợp pháp của các khoản CPBH và CPQLDN phát sinh, đồng thời phân bổ chi phí cho hàng bán ra hợp lý, khoa học, đảm bảo nguyên tắc nhất quán.
    Phải tập hợp chính xác, đúng đắn kết quả bán hàng nói chung cũng như kết quả tiêu thụ từng loại hàng nói riêng.

    1.1.4. Nhiệm vụ kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng
    Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng có vai trò rất quan trọng trong việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động bán hàng, kết quả bán hàng của DN nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động đó. Để thực hiện được vai trò đó, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
    ã Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình bán hàng, ghi chép đầy đủ các khoản doanh thu bán hàng, chi phí bán hàng, các khoản giảm trừ doanh thu bán hàng
    ã Theo dõi quản lý chặt chẽ tình hình thanh toán công nợ của khách hàng, đôn đốc đảm bảo thu đủ tiền bán hàng. Xác định chính xác kết quả bán hàng, phản ánh và đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
    ã Cung cấp các thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận có liên quan, định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với hoạt động bán hàng và kết quả bán hàng.
    Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng cần thực hiện tốt các nội qui sau:
    ã Tổ chức tốt việc luân chuyển chứng từ, hạch toán ban đầu, ghi sổ kế toán về doanh thu, giá vốn hàng bán, CPBH & CPQLDN.
    ã Tổ chức thiết kế, sử dụng hệ thống tài khoản, hệ thống sổ kế toán tổng hợp và chi tiết theo yêu cầu quản lý của DN về nghiệp vụ bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
    ã Tổ chức lập báo cáo doanh thu, báo cáo bán hàng, báo cáo kết quả kinh doanh theo yêu cầu của DN và các cơ quan quản lý cấp trên.

    1.2. lý luận chung về doanh thu bán hàng và kết quả bán hàng
    1.2.1. Phương thức bán hàng
    Quá trình bán hàng của doanh nghiệp có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức bán hàng khác nhau, phương thức bán hàng có thể được hiểu là các cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để tiêu thụ hàng hoá, thành phẩm. Trong DN thường sử dụng các phương thức bán hàng sau:
    1.2.1.1. Bán hàng theo phương thức gửi hàng đi bán
    Theo phương thức này, định kỳ doanh nghiệp gửi hàng cho khách hàng trên cơ sở của hợp đồng mua bán hàng giữa hai bên và giao hàng tại địa điểm đã squi ước trong hợp đồng. Hàng được gửi đi có thể được xuất tại kho hoặc xưởng sản xuất của DN và cũng có thể được xuất tại kho của bên thứ ba (trường hợp DN thương mại mua bán thẳng). Khi được gửi đi, hàng vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào khách hàng đã trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì khi ấy hàng mới chuyển quyền sở hữu và doanh nghiệp được ghi nhận doanh thu bán hàng.
    Thủ tục chứng từ bán hàng: Doanh nghiệp lập hoá đơn bán hàng hoặc phiếu xuất kho kiêm hoá đơn bán hàng (có 3 liên hoặc 4, 5 liên tuỳ theo yêu cầu của doanh nghiệp và phải đặt giấy than viết một lần). Chứng từ này được chuyển cho thủ kho để làm thủ tục xuất kho và ghi thẻ kho, một liên giao cho người vận chuyển hàng, những liên còn lại chuyển về phòng kế toán để ghi sổ và làm thủ tục thanh toán .
    1.2.1.2. Phương thức bán hàng bên mua đến nhận hàng trực tiếp
    Theo phương thức này, khách hàng uỷ quyền cho cán bộ nghiệp vụ đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp bán hoặc giao nhận hàng tay ba (các doanh nghiệp thương mại mua bán thẳng). Người nhận hàng sau khi ký vào chứng từ bán hàng của doanh nghiệp thì hàng hoá được xác định là đã bán (hàng đã chuyển quyền sở hữu)
    Chứng từ bán hàng trong phương thức này cũng là hoá đơn bán hàng, hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho, trên chứng từ bán hàng đó có chữ ký của người nhận hàng.
    1.2.1.3. Phương thức bán lẻ hàng và bán các dịch vụ lao vụ
    Phương thức này áp dụng đối với các cửa hàng, quầy hàng bán lẻ sản phẩm, hàng hoá và các DN hoạt động kinh doanh dịch vụ mà quá trình sản xuất
    và bán hàng diễn ra đồng thời.
    Bán lẻ sản phẩm, hàng hoá là việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng
    giao hàng cho khách hàng và thu tiền của khách hàng.
    Bán dịch vụ, lao vụ ở các DN là kết thúc quá trình phục vụ các dịch vụ lao vụ đã được thực hiện, khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán về dịch vụ lao vụ đã thực hiện, đồng thời DN xác định doanh thu bán hàng.
    Chứng từ bán hàng sử dụng trong phương thức này có thể là hoá đơn bán hàng, hóa đơn GTGT, báo cáo bán hàng theo mẫu qui định sẵn.

    1.2.2. Doanh thu bán hàng
    1.2.2.1. Khái niệm doanh thu bán hàng
    Doanh thu bán hàng theo thông tư số 76TC/TCDN của Bộ tài chính qui định là số thu về bán hàng hoá, lao vụ dịch vụ mà DN đã bán, đã cung cấp cho khách hàng và đã được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
    Doanh thu bán hàng của DN còn bao gồm các khoản sau:
    Các khoản trợ giá, phụ thu theo qui định của Nhà nước để sử dụng cho DN đối với hàng hoá, dịch vụ của DN đã tiêu thụ trong kỳ.
    Giá trị các sản phẩm, hàng hoá đem biếu tặng hoặc sử dụng trong nội bộ DN.
    Đối với các DN thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì doanh thu bán hàng không bao gồm thuế GTGT, còn ở các DN thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng là trị giá thanh toán của số hàng đã bán (bao gồm cả thuế).
    Doanh thu bán hàng là một chỉ tiêu quan trọng đối với DN, nó không chỉ là nguồn tài chính chủ yếu để DN trang trải các chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh mà hơn nữa nó còn phản ánh qui mô kinh doanh, trình độ quản lý, tương lai tồn tại và phát triển của DN. Vì vậy việc thực hiện đầy đủ, kịp thời chỉ tiêu doanh thu bán hàng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo ổn định cho hoạt động của DN.
    1.2.2.2. Nguyên tắc ghi nhận doanh thu bán hàng
    Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt khi ghi nhận doanh thu bán hàng là doanh thu bán hàng chỉ được ghi nhận tại thời điểm hàng hoá đưọc coi là tiêu thụ. Hàng hoá, thành phẩm của DN được coi là tiêu thụ khi thoả mãn điều kiện DN mất quyền sở hữu về hàng hoá, đồng thời nhận được quyền sở hữu về tiền tệ hoặc quyền được đòi tiền của khách hàng. Việc xác định thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với DN, có xác định đúng thời điểm tiêu thụ thì mới xác định được thời điểm kết thúc công việc hàng hoá, và phản ánh chính xác doanh thu bán hàng, trên cơ sở đó tính toán chính xác kết quả bán hàng trong kỳ kinh doanh của DN. Sau đây là một số trường hợp cụ
    thể hàng hoá được coi là tiêu thụ:
    Với phương thức xuất kho gửi bán: Hàng gửi đi bán được coi là tiêu thụ khi DN nhận được tiền bán hàng do khách hàng trả , khách hàng đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán, hoặc số hàng gửi đi bán áp dụng phương thức thanh toán theo kế hoạch thông qua ngân hàng.
    Với phương thức bán hàng trực tiếp tại kho và bán lẻ hàng hoá thì khi người mua nhận hàng thì hàng đó đã được xác định là tiêu thụ và DN được ghi nhận doanh thu.

     
Đang tải...