Luận Văn Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và những vấn đề kinh tế vĩ mô trung – dài hạn

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 2/12/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
    KINH TẾ VĨ MÔ TRUNG – DÀI HẠN










    1. Tình hình 2006-2010 chứa đựng “nghịch lý” phát triển hiếm thấy: cơ hội thuận lợi lớn, mức đầu tư cao, thị trường mở rộng, đà tăng trưởng tốt nhưng tăng trưởng giảm, không cao, lạm phát cao và bất ổn nghiêm trọng.
    + Những yếu tố bất thuận lợi cũng có (rủi ro bên ngoài, bao gồm tác động khủng hoảng toàn cầu 2008-2009), song không thể lấn át xu hướng tác động tích
    cực.
    + So sánh mức trung bình của 3 kỳ 5 năm sẽ thấy rõ tính có vấn đề của
    giai đoạn 2006-2010:



    1996-2000
    2001-2005
    2006-2010


    Lạm phát (CPI) bình quân năm (%)
    3,4
    5,1
    11,4


    Tăng trưởng GDP bình quân năm (%)
    6,96
    7,51
    7,02




    Ngoài ra, nền kinh tế còn chịu
    - Thâm hụt Ngân sách tăng cao
    - Thâm hụt thương mại tăng vọt
    - Hiệu quả đầu tư thấp (duy trì ICOR cao)


     Cơ hội không tự thân chuyển hóa thành lợi ích tăng trưởng hiện thực, càng không được bảo đảm chuyển thành lợi ích phát triển mà người dân và xã hội được hưởng, xét trên cả ngắn hạn và dài hạn1.


    Nguyên nhân nền tảng của tình hình đã trở nên ngày càng rõ ràng:


    i) chủ quan, không tích cực chuẩn bị các điều kiện để chuyển hóa cơ hội thành lợi ích tăng trưởng và phát triển thực tế cũng như để giảm thiểu các tác động rủi ro;
    ii) mô hình tăng trưởng lạc hậu được duy trì quá lâu, tạo ra những điểm yếu cơ cấu và mâu thuẫn nội tại gay gắt trong nền kinh tế.






    1 Lưu ý: trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát (CPI) đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ (thực tế là như vậy), chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh.

    2. Tình hình cơ bản của giai đoạn 2006-2010: hàng năm Chính phủ đều phải nỗ lực rất lớn trong điều hành để kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô. Các giải pháp thực thi chủ yếu đều mang tính ngắn hạn, tình thế (chữa cháy), nặng về hành chính, chưa tập trung xử lý các vấn đề cơ bản (cơ cấu, hiệu quả và sức cạnh tranh). Kết cục: có thể đạt được tạm ổn ngắn hạn, đạt được một số mục tiêu cam kết chính hàng năm nhưng i) phải trả giá bằng sự hao tổn nguồn lực quốc gia rất lớn (không chỉ đo bằng số tiền Chính phủ bỏ ra để chống lạm phát, duy trì tăng trưởng mà quan trọng hơn, đo bằng mức độ hao tổn sức khỏe của hệ thống doanh nghiệp sau khi chống chọi với lạm phát và lãi suất cao, bằng sự sụt giảm thu nhập và mức sống thực tế của người dân và đặc biệt, bằng sự suy giảm lòng tin thị trường và lòng tin của dân vào môi trường chính sách, vào năng lực quản trị
    vĩ mô của Đảng và Nhà nước)2; ii) sau đó, Chính phủ và nền kinh tế lại bước vào
    một chu kỳ ngắn hạn (hàng năm) mới: tiếp tục đương đầu với tình trạng bất ổn
    và nguy cơ lạm phát gay gắt hơn.
    Sự tái diễn hàng năm một chu kỳ như vậy chứa đựng nguy cơ tạo vòng xoáy bất ổn và xu hướng suy thoái rất đáng lo ngại. Nó chứng tỏ năng lực điều hành vĩ mô của bộ máy quản trị quốc gia còn nhiều bất cập, nhất là trong bối cảnh hội nhập, khi cơ hội và tahchs thức tràn vào, khi nền kinh tế phải trực diện đương đầu với các tình thế và quan hệ phát triển phức tạp gấp bội phần so với trước.
    Nguy cơ và xu hướng này đã được cảnh báo từ sớm nhưng ít được quan tâm xử lý. Vì vậy, “cơ hội” cho phép nền kinh tế trỗi dậy do tình trạng bất ổn và khủng hoảng tạo ra (giúp nhận diện rõ điểm yếu và xác định đúng các giải pháp xoay chuyển tình hình, tiến hành điều chỉnh cơ cấu thể chế) đã bị bỏ qua3.
    3. Xu hướng “vòng xoáy” bất ổn nằm chủ yếu trong mối quan hệ giữa năng lực điều hành vĩ mô và quản trị phát triển yếu kém với yêu cầu xử lý các vấn đề ngắn hạn và dài hạn với mức độ bức bách đều cùng tăng lên. Trong điều kiện năng lực có hạn, xu hướng nổi bật là tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách, “nước sôi lửa bỏng” (lạm phát cao, lãi suất cao, thiếu vốn, tỷ giá bất hợp lý, v.v.) bằng cách tạm gác lại các vấn đề dài hạn (cơ cấu đầu tư, phát triển công




    2 Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả những tổn thất quốc gia. Lạm phát cao kéo dài làm cho cả tiết kiệm dân cư lẫn tiết kiệm doanh nghiệp suy giảm mạnh. Về dài hạn, sự sụt giảm đồng nghĩa với triển vọng suy giảm mạnh đầu tư nội địa. Với mong muốn duy trì tăng trưởng cao, nguồn lực chủ yếu phải dựa vào chỉ có thể là đầu tư nhà nước và đầu tư nước ngoài. Bi kịch là ở chỗ cả hai dòng đầu tư này đều có những vấn đề dài hạn liên quan đến hiệu quả: ICOR của đầu tư nhà nước quá cao; FDI cũng kém hiệu quả nếu khu vực tư nhân trong nước yếu kém.
    Có thể nhận thấy từ các mối quan hệ trên nguy cơ xuất hiện “vòng xoáy” lạm phát và suy thoái là rất
    lớn.
    3 Có thể hình dung một sự đánh mất cơ hội “kép” của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua: i) mất cơ
    hội tạo bùng nổ tăng trưởng do hội nhập (gia nhập WTO) mang lại và ii) mất cơ hội “tái cấu trúc nền
    kinh tế” (điều chỉnh thể chế) do tình thế khủng hoảng tạo ra.

    nghiệp hỗ trợ, giải quyết các nút thắt tăng trưởng (kết cấu hạ tầng), chất lượng nguồn nhân lực, v.v.) - tuy là những điểm yếu căn bản, song chưa phải là vấn đề “cháy nhà, chết người” so với các vấn đề ngắn hạn.
    Cách làm như vậy chỉ mang tính “chữa cháy”, không giải quyết triệt để
    vấn đề. Có thể rút ra hai nhận định quan trọng.
    Một là, các biện pháp cấp cứu chỉ có thể giúp nền kinh tế qua cơn nguy
    kịch, không thể giúp nó phục hồi sức khỏe và tạo nên một cơ thể vững mạnh.
    Hai là, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phụ thuộc ngày càng mạnh vào nền kinh tế thế giới đang biến động nhanh, bất ổn, khó dự báo và cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì với một cơ cấu kinh tế không vững và không mạnh, việc chỉ tập trung vào các biện pháp “chữa cháy” chứa đựng nguy cơ tái diễn và bùng phát bất ổn, khả năng bùng nổ khủng hoảng ngày càng tăng.
    Đó chính là tình thế hiện tại của nền kinh tế nước ta.
    4. Lập luận trên cho thấy cần có cách tiếp cận “mới” đến vấn đề chống lạm phát, duy trì ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng của nước ta hiện nay.
    Cách tiếp cận này bao gồm các yếu tố sau.
    a/ Nhận diện đúng thực chất tình hình (mức độ nghiêm trọng).
    b/ Xác định rõ căn nguyên bất ổn và lạm phát.
    c/ Đề xuất các giải pháp căn cơ, chiến lược cho tăng trưởng bền vững (cốt lõi là ổn định vĩ mô) và lộ trình thực thi.
    d/ Xác định các giải pháp “cấp cứu” một cách bài bản, đúng cách (theo
    tình thế) và “vừa theo sức của mình”.
    e/ Xây dựng nguyên tắc và cơ chế phối hợp thực thi chính sách i) theo trục thời gian (dài hạn và ngắn hạn), ii) theo trục chính sách (các bộ ngành, trung ương – địa phương và Chính phủ - các tập đoàn lớn), bảo đảm tính nhất quán và không xung đột trong thực thi.
    [Chú ý: chức năng, trách nhiệm thực thi, vấn đề giám sát và kiểm tra]
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...