Sách Kể chuyện đất nước

Thảo luận trong 'Sách Lịch Sử - Địa Lý' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Kể chuyện đất nướcI. HÀ NỘI - THĂNG LONG
    II. ĐẤT TỔ
    III. HẠ LONG
    IV. KHÚC RUỘT MIỀN TRUNG
    TỪ TAM ĐIỆP ĐẾN ĐÈO NGANG
    BÌNH TRỊ THIÊN
    TỪ ĐÀ NẴNG ĐẾN PHAN THIẾT
    HỘI AN
    V. MỘT DÃY NÚI - MỘT CON ĐƯỜNG
    VI. VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA CHÀM
    VII. RỪNG NÚI VIỆT BẮC
    TÂY BẮC
    TÂY NGUYÊN
    VIII. NAM BỘ
    MIỀN ĐÔNG ĐẤT ĐỎ
    ĐỒNG NAI - RỪNG SÁT - VŨNG TÀU
    ĐỒNG THÁP MƯỜI
    MIỀN TRUNG NAM BỘ
    MIỀN TÂY NAM BỘ
    IX. SÀI GÒN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
    KẾT
    I. HÀ NỘI - THĂNG LONG
    Chúng ta bắt đầu với Hà Nội. Nơi đây năm 1010, vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô để "mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho con cháu về sau vì ở trung tâm đất nước được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc; tiện hình thế núi sông sau trước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng ( .), thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời" (chiếu dời đô).
    Nơi đây sông Hồng uốn khúc, trước đó tách ra con sông Đáy rồi đến sông Đuống, sông Nhuệ, ngày xưa còn cả con sông Tô Lịch chảy ngang qua phố phường. Gần một nghìn năm đã qua, cái tên Thăng Long gắn liền với mọi biến cố của lịch sứ dân tộc, mỗi bước hưng vong của quốc gia. Người Việt Nam trở về Hà Nội, đến với Hà Nội, trước hết là để đi vào chiều sâu của lịch sử quốc gia dân tộc.
    Thăng Long ba lần bị quân Nguyên đốt phá, rồi đến quân Chiêm của Chế Bồng Nga, quân Minh của Trương Phụ; thế kỷ XVIII kiêu binh tàn phá hoàng cung và phủ chúa, thế kỷ XIX Gia Long cho đốt phá nốt cung điện nhà Lê dời đô vào Huế, rồi Pháp lại lấy hoàng thành xưa làm nơi đóng quân. Sau khi kinh đô dời vào Huế, Bà Huyện Thanh Quan đã thốt lên:
    Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
    Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
    Năm 1812, trở lại với Thăng Long, Nguyễn Du than thở:
    Thiên niên cự thất thành quan đạo
    Nhất phiến tân thành một cố cung
    (Những nơi có nhà lớn nghìn năm nay thành đường cái. Một thành mới đã thay thế cho cung điện xưa).
    Ngày nay chúng ta thoát được cái buồn man mác của các thi sĩ xưa, ta nhìn lại lịch sử của dân tộc, của đất nước với con mắt của những người được giải phóng, được nhiều ngành khoa học, địa chất, địa lý, khảo cổ, dân tộc học, sử học giúp cho nhìn rõ hơn con đường tiến lên của giống nòi.
    Mặc dù thành thị xưa bị tàn phá rất nhiều, Hà Nội ngày nay vẫn giữ được khá nhiều vết tích, đủ cho chúng ta có dịp ôn lại mấy nghìn năm cuộc sống của cha ông. (Xem quyển Hà Nội nghìn xưa xuất bản năm 1975 của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán).
    Sông Nhị, núi Nùng
    Một con sông lớn, một gò đất không có gì cao lắm. Nhưng là núi thiêng (nay ở trong thành, khu quân đội) có đền thờ thần Long đỗ (rốn Rồng), nơi giao lưu của trời đất và con người. Nơi trung tâm của làng Hà Nội cổ, bên bờ sông Cái. Một con sông ngang ngược, thường đổi dòng, để sót lại một chuỗi hồ lớn nhỏ. Hà Nội là thành phố của những mặt hồ, dấu vết của sông Hồng, Con đường Hoàng Hoa Thám bên bờ hồ Tây xưa là con đê, khi hồ còn là một khúc sông. Người xưa lấp bớt, năm 1620 đắp đường Cố Ngự (thường gọi trệch là Cổ Ngư, nay mở rộng thành đường Thanh Niên) thành hai hồ, hồ nhỏ là Trúc Bạch (Giặt Lụa).
    500 héc ta mặt nước bao quanh là những làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Nhật Tân, Thụy Khuê (Bưởi) bao lần được sử sách nhắc đến, một mặt hồ từ xưa đến nay mang bao nhiêu tên, gọi là truyền thuyết và sự tích này khác - Hồ Xác Cáo, hồ Sương Mù, hồ Trâu Vàng, nay nôm na là hồ Tây. Trung Tâm cũng là một mặt hồ, hồ Gươm, "nước xanh như pha mực, bên hồ ngọn Tháp Bút, viết thơ lên trời cao" (Trần Đăng Khoa) có cầu Thê Húc, cho nắng đậu ban mai, đến đây không thể không nhớ đến người anh hùng dân tộc Lê Lợi, và nhà văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (vào thế kỷ XIX đã xây nên cảnh đền tháp).
    Dạo quanh Hà Nội là như vậy, ngắm nhìn sự vật ngày nay không thể không nhớ lại chuyện xưa, vì đâu phải ngẫu nhiên mà có những tên phố như Tràng Thi, Giảng Võ, có những bến Chương Dương, chùa Quán Sứ. Đi dọc đường Phan Đình Phùng, có nghĩ rằng thời Lý - Trần đây là dòng sông Tô Lịch của câu ca dao xưa mới thật cảm hứng.
    Nước sông Tô vừa trong vừa mát
    Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
    Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
    Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu .
     
Đang tải...