Tài liệu học kỳ dân sự 1-Về các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005, nhận xét và kiến nghị”.

Thảo luận trong 'Pháp Luật Đại Cương' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. LỜI NÓI ĐẦU.
    Nền kinh tế xã hội của nhà nước ngày càng phát triển một cách toàn cầu hóa, theo xu hướng nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế này dựa trên quy định về các hình thức sở hữu. Sự phát triển của các quốc gia cũng phần nào phụ thuộc vào các hình thức sở hữu. Thực tế, trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, các hình thức sở hữu luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Hình thức sở hữu ở mỗi quốc gia lại khác nhau. Ở Việt Nam, các hình thức sở hữu cũng được biểu hiện một cách rõ nét và mang những nét riêng góp phần thúc đẩy nền kinh tế của đất nước. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nên em đã quyết định chọn đề tài: “Về các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005, nhận xét và kiến nghị”.
    B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
    Chế định về các hình thức sở hữu luôn là một đề tài nóng, có giá trị thực tiễn cao. Cơ sở pháp lý quan trọng để xác định các hình thức sở hữu trong BLDS chính là hiến pháp. Điều 15, Hiến pháp 1992 đã quy định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Các hình thức sở hữu được quy định ở Bộ luật dân sự năm 2005 tại Chương XIII và được quy định khái quát tại Điều 172 BLDS 2005:“Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp”.Mỗi hình thức sở hữu lại mang những đặc trưng riêng nên cần phải có sự hiểu biết rõ về mỗi hình thức sở hữu để tránh nhầm lẫn.
    I. Các hình thức sở hữu.
    1. Sở hữu nhà nước.
    1.1. Chủ thể của sở hữu nhà nước.
    Sở hữu nhà nước đã trải qua một quá trình lịch sử khá dài với rất nhiều thăng trầm. Tuy nhiên, sở hữu nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo của nền kinh tế đất nước. Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về sở hữu toàn dân, sau đó Bộ luật dân sự năm 2005 đã thay đổi tên gọi là “sở hữu nhà nước”. Quy định như vậy nhằm tránh tình trạng làm mất đi bản chất và ý nghĩa chính trị, pháp lý của hình thức sở hữu này.Trong công cuộc đổi mới kinh tế hiện nay, tất cả các thành phần kinh tế đều được ghi nhận sự bình đẳng. Vậy làm thế nào để phát huy vai trò của sở hữu nhà nước đối với nền kinh tế của đất nước? Thực tế, cần phải có một cơ chế rõ nét để sở hữu nhà nước phát huy hiệu vai trò của mình. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định:Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữagiai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Điều 17 hiến pháp này cũng nêu rõ Nhà nước là đại diện cho sở hữu toàn dân. Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho tầng lớp nhân dân, là đại diện chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước và chính là chủ thể của sở hữu nhà nước. Khác với những chủ thể khác, Nhà nước tham gia quan hệ quyền sở hữu với tư cách là chủ thể đặc biệt và là chủ thể duy nhất đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu. Để thực hiện quyền sở hữu của mình, Nhà nước thành lập các cơ quan quyền lực, cơ quan quản lí ở trung ương và địa phương, thành lập các doanh nghiệp nhà nước.
    1.2. Khách thể của sở hữu nhà nước.
    Khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng, phạm vi khách thể không bị hạn chế. Để thực hiện được vai trò của chủ sở hữu đối với hình thức sở hữu này buộc nhà nước phải có tài sản thuộc sở hữu của mình.
    Trên cơ sở quy định tại điều 17, Hiến pháp 1992, Điều 200, BLDS quy định phạm vi tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như sau: “Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định.”
    Như vậy, phạm vi tài sản thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm:
    - Đất đai: Hiến pháp 1992 (điều 17), Luật đất đai( khoản 1 điều 5), BLDS ( Điều 200) đều nêu rõ đất đai là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước. Đất đai bao gồm tất cả các loại đất đai trong phạm vi lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đất đai được phân thành 3 loại chính là: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Người sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng đất và các liên quan đến quyền sử dụng đất.
    - Rừng, núi, sông, hồ:
    + Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác. Theo quy định tại Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng thì “rừng tự nhiên, rừng trồng bằng vốn Nhà nước thuộc sở hữu nhà nước”. Rừng được chia thành các loại sau:
    · Rừng phòng hộ để bảo vệ đất, nguồn nước, chống xói mòn, hạn chế thiên tai, rừng để chắn gió, chắn sóng biển và lấn biển.
    · Rừng đặc dụng để bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái, rừng quốc gia, động vật rừng, nghiên cứu khoa học, làm danh lam thắng cảnh và du lịch.
    · Rừng sản xuất dùng vào việc khai thác, kinh doanh gỗ, các lâm sản rừng và động vật rừng.
    Theo quy định tại khoản 1, điều 6, Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì Nhà nước thống nhất quản lý và định đoạt đối với rừng tự nhiên và rừng được phát triển bằng vốn của Nhà nước
    + Núi: Dạng địa hình lồi, sườn dốc, có độ cao lớn hơn đồi: núi nhấp nhô vượt núi băng sông.
    + Sông: Dòng nước tự nhiên tương đối lớn, chảy thường xuyên trên mặt đất, thuyền bè thường đi lại được.
    + Hồ: Nơi trũng ở trong đất liền, sâu và rộng, chứa nước thường là nước ngọt.
    Tất cả núi, sông, hồ trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc sở hữu của Nhà nước.
    - Nguồn nước: Nước là một yếu tố không thể thiếu đối với đời sống của con người.Nước bao gồm mặt biển, sông, hồ, ngòi, rạch . Điều 1, Luật tài nguyên nước 1998 quy định: “Tài nguyên nước là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Luật cải cách ruộng đất năm 1953 và một số văn bản pháp luật khác đã xóa bỏ quyền chiếm hữu tư nhân, những đặc quyền, đặc lợi về khúc sông, mặt biển. Pháp luật đã quy định: Mặt biển, hồ lớn, sông ngòi, các công trình thủy lợi đều thuộc sở hữu nhà nước.
    - Tài nguyên trong lòng đất: Khoáng sản là những loại tài nguyên trong lòng đất, dưới thềm lục địa có giá trị kinh tế phục vụ cho việc phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp quốc phòng.
    + Hầm: bao gồm các khoáng chất để xây dựng và cung cấp cho công nghiệp như đá vôi, đất sét, cát đen, cát vàng, muối mỏ, các khoáng chất làm nguyên liệu sản xuất phân bón.
    + Mỏ: bao gồm các loại khoáng chất như kim loại, đá quý, than đá, nhiên liệu lỏng (dầu), nhiên liệu khí
    - Các loại vũ khí quốc phòng, an ninh: là những tài sản chỉ thuộc quyền sở hữu nhà nước, do nhà nước trang bị cho các lực lượng vũ trang để chiến đấu bảo vệ tổ quốc và giữ gìn trật tự trị an. Ở nước ta, cá nhân không có quyền có vũ khí riêng.
    1.3. Nội dung của sở hữu nhà nước.
    Với tư cách là chủ sở hữu với tài sản là những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của nước ta, cũng như các chủ sở hữu khác, Nhà nước - chủ sở hữu đặc biệt cũng có những quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình.
    - Quyền chiếm hữu: Nhà nước kiểm tra, giám sát tài sản thuộc sở hữu của mình bằng cách ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền hạn, nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản được nhà nước giao cho.
    - Quyền sử dụng: Đây là quyền năng mà nhà nước đã chuyển giao cho các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước để quản lý và khai thác công dụng tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
    - Quyền định đoạt: Để thực hiện quyền định đoạt, Nhà nước trao cho các cơ quan quản lí nhà nước ở địa phương quyền được định đoạt một phần trong phạm vi quyền sở hữu đất đai của mình. Đồng thời, những cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất cũng có thẩm quyền thu hồi đất nếu người sử dụng đất không thực hiện đúng chính sách, pháp luật của nhà nước về mục đích sử dụng từng loại đất, bảo vệ đất
    Để việc thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước một cách tốt nhất thì phải bảo đảm các nguyên tắc chung. Thứ nhất, Chính phủlà cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành và điều hành sẽ “thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước”. Hơn thế nữa, để đảm bảo quyền chủ sở hữu của mình, Điều 202 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định:“Việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được thực hiện trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định. Cuối cùng, sử dụng tài sản của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
    Để thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với tài sản của mình một cách có hiệu quả nhất thì nhà nước đã tiến hành đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước hoặc giao cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác được phép quản lý, sử dụng, khai thác hiệu quả, đúng mục đích, trong phạm vi, theo trình tự, cách thức phù hợp đồng thời phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước.
    + Trong trường hợp tài sản nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước thì nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Điều 203 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“1. Khi tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.2. Doanh nghiệp nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.”
    Không giống với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ cụm từ “nhà nước” ở cuối khoản 1. Thực tế doanh nghiệp nhà nước đã được quy định chung trong Luật doanh nghiệp chứ không giới hạn chỉ trong luật doanh nghiệp nhà nước trước kia nữa. Khoản 2 là quy định hoàn toàn mới so với Bộ luật dân sự năm 1995.
    Nhà nước có thể đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn vào doanh nghiệp. Tài sản mà Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp rất đa dạng, có thể là đất đai, tài nguyên, phần vốn khác Khi nhà nước đầu tư vốn, doanh nghiệp nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
    + Thực hiện quyền sở hữu nhà nước trong trường hợp tài sản được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang được giữ nguyên như quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội, duy trì trật tự và đảm bảo an ninh, an toàn xã hội. Tài sản nhà nước giao cho các cơ quan, đơn vị này thì các cơ quan, đơn vị này phải sử dụng tài sản đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.
    + Thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với tài sản được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp.Nếu như trong Điều 211 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định chỉ có 2 nhóm đối tượng được giao tài sản là tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội thì Điều 205 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thêm các tổ chức xã hội – nghề nghiệp như: “1. Khi tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp có quyền quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ”. Các tổ chức được Nhà nước giao tài sản có quyền quản lý, sử dụng tài sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, cách thức, trình tự do pháp luật quy định.
    + Đối với các doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ hợp tác và cá nhân sử dụng khai thác tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước. Tại Điều 206 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền của doanh nghiệp, hộ gia đình, tổ hợp tác và cá nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước đã bỏ cụm từ “ngoài quốc doanh” sau cụm từ “doanh nghiệp” nhằm làm thống nhất trong quy định của hệ thống pháp luật nước ta.
    Ngoài ra, đối với những tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước mà chưa được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý thì Chính phủ sẽ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo sát và lập quy hoạch đưa và khai thác.
    Tóm lại, nhà nước là chủ thể đặc biệt của quyền sở hữu, Nhà nước thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu thông qua các cơ quan nhà nước.
    2. Sở hữu tư nhân.
    Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân về tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chât và tinh thần của từng cá nhân.
    2.1. Chủ thể của sở hữu tư nhân.
    Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, sở hữu tư nhân được ghi nhận là một hình thức sở hữu bình đẳng giống như bất kì một hình thức sở hữu nào khác. Điều 211, BLDS 2005 quy định: “ Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân. Muốn trở thành chủ thể của sở hữu tư nhân được toàn quyền tự mình hành xử những quyền năng của chủ sở hữu phải có những điều kiện nhất định. Bên cạnh việc quy định chủ thể sở hữu tư nhân là công dân Việt nam thì BLDS còn công nhận các chủ thể sở hữu tư nhân là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có vốn đầu tư về nước để sản xuất, kinh doanh. Những người này cũng là chủ thể của sở hữu tư nhân đối với phần vốn, tài sản mà họ đã đầu tư tại Việt Nam. Trong một số trường hợp, nếu cá nhân không trực tiếp thực hiện được các quyền năng của quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền năng này phải thông qua hành vi của người đại diện.
    2.2. Khách thể của sở hữu tư nhân.
    Khách thể của sở hữu tư nhân là nhưng tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân công dân. Tài sản thuộc sở hữu tư nhân được pháp luật quy định rất đa dạng về căn cứ phát sinh, không giới hạn về số lượng, giá trị tải sản. Theo quy định của pháp luật thì: “Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị”. Sự hạn chế đó chỉ trong trường hợp: “Cá nhân không được sở hữu đối với tải sản mà pháp luật quy định không thể thuộc hình thức sở hữu tư nhân”. Phạm vi khách thể của sở hữu tư nhân được Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Tuy nhiên, cá nhân không được sở hữu đối với tài sản mà pháp luật quy định không thể thuộc sở hữu tư nhân. Đó là các tài sản theo quy định tại điều 212 BLDS.
    2.3. Nội dung của sở hữu tư nhân.
    Nội dung quyền sở hữu của cá nhân công dân được thể hiện ở việc làm chủ, chi phối tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản (Điều 213 BLDS). Cá nhân là chủ thể sở hữu của tư nhân có quyền thực hiện các quyền năng trong nội dung của sở hữu tư nhân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều 21 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”.Sau đó đã có nhiều văn bản khuyến khích công dân có vốn, có trình độ khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Sở hữu tư nhân không còn có sự khác biệt với các hình thức sở hữu khác như trước kia mà thậm chí Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân. Nhà nước không sử dụng những biện pháp cưỡng chế hành chính hay tiến hành cải tạo để chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể. Tài sản tư nhân không bị quốc hữu hóa và chỉ trong trường hợp “thật cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường” (Điều 23 Hiến pháp năm 1992).
    Bên cạnh đó, Nhà nước còn khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Tài sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng không bị quốc hữu hóa. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo các quy định của pháp luật về khuyến khích đầu tư.
    Nguyên tắc chung của việc thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu tư nhân là: “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác ”.
    3. Sở hữu tập thể.
    3.1. Chủ thể của sở hữu tập thể.
    Điều 208, BLDS 2005 quy định: Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xut, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi.Sở hữu tập thể được xác lập trên cơ sở các cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức để hợp tác sản xuất kinh doanh.
    Chủ thể của sở hữu tập thể là các hợp tác xã (doanh nghiệp tập thể). Các hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân. Cơ sở để hình thành hợp tác xã là do các xã viên tự nguyện liên kết lại nhằm giải quyết, đáp ứng những nhu cầu nhất định của mình trên tinh thần tự nguyện, cùng góp vốn và cùng góp sức. Mỗi hợp tác xã với tư cách là chủ thể của sở hữu tập thể có quyền sở hữu đối với toàn bộ tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật.
    3.2. Khách thể của sở hữu tập thể.
    “Tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được Nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu của tập thể đó” (điều 209 BLDS 2005). Khách thể của sở hữu tập thể bao gồm tất cả các tư liệu sản xuất, công cụ lao động, vốn góp của xã viên, các loại quỹ do hợp tác xã lập ra, các thu nhập hợp pháp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn được nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật.
    3.3. Nội dung của sở hữu tập thể.
    Doanh nghiệp tập thể là loại hình kinh tế có tư cách pháp nhân nên hoạt động của loại hình doanh nghiệp này phải tuân theo các quy định của BLDS, các luật chuyên ngành và các quy định của pháp luật về pháp nhân.
    - Theo quy định của pháp luật thì việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể phải tuân theo pháp luật, phù hợp với điều lệ của tập thể đó, bảo đảm sự phát triển sự phát triển ổn định của sở hữu tập thể trong nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
    - Ban quản trị dựa theo điều lệ và nghị quyết của đại hội toàn thể xã viên giao tài sản thuộc sở hữu tập thể cho các thành viên trực tiếp khai thác công dụng bằng sức lao động của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phục vụ nhu cầu mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế chung và đáp ứng lợi ích của các thành viên.
    Nói chung, các quy định về hình thức sở hữu tập thể ở Bộ luật dân sự năm 2005 được giữ nguyên nội dung như ở Bộ luật dân sự năm 1995, chỉ khác ở chỗ trong Bộ luật dân sự năm 2005 có thêm cụm từ “hình thức” vào trước các cụm từ “sở hữu tập thể”.
    Trong quá trình thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu đối với doanh nghiệp tập thể thì các thành viên của tập thể có quyền được ưu tiên mua, thuê, thuê khoán tài sản thuộc hình thức sở hữu tập thể. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của chủ sở hữu, không can thiệp vào công việc quản lý và hoạt động hợp pháp của chủ sở hữu tập thể.
    4. Sở hữu chung.
    4.1. Khái niệm sở hữu chung.
    Khi nhiều chủ thể cùng có quyền sở hữu đối với một tài sản nhất định thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ thể này lại có ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác. Chính vì thế mà pháp luật có quy định về sở hữu chung. Điều 214 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”.
    Cơ sở để hình thành sở hữu chung là “tài sản chung” của các chủ thể. Như vậy, khi hai hay nhiều người có chung một tài sản, thì những người đó được gọi là đồng sở hữu. Công dân với nhau, hợp tác xã với nhau đều có thể trở thành đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung, có quyền chung trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó.Quyền sở hữu chung được xác lập theo thỏa thuận của các chủ sở hữu.
    Việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung của các đồng chủ sở hữu có những đặc điểm riêng thể hiện ở quyền năng của mỗi chủ sở hữu là thống nhất đối với toàn bộ khối tài sản chứ không phải chỉ riêng với phần giá trị mà tài sản mà họ có. Bởi lẽ nếu như quyền năng của mỗi đồng chủ sở hữu mà tách ra theo phạm vi phần giá trị tài sản mà họ có thì các đồng sở hữu không thể sử dụng tài sản đó và do vậy sở hữu chung sẽ không còn ý nghĩa. Ví dụ: A, B thỏa thuận chung tiền mua một chiếc máy tính thì quyền năng của họ đối với chiếc máy tinh không phải là theo từng phần mà họ đóng góp. Từ đặc điểm này mà việc sử dụng định đoạt tài sản phải được các đồng chủ sở hữu thỏa thuận dựa trên tính chất, công dụng của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng chủ sở hữu chung. Ví dụ: A và B chung tiền mua một chiếc phi thuyền và thỏa thuận A sẽ được sử dụng trước trong khoảng thời gian 10 ngày và sau đó là đến B.
    Đối với việc định đoạt tài sản, về nguyên tắc, mỗi đồng chủ sở hữu là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần có quyền quyết định phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác có quyền ưu tiên mua, cụ thể là trong thời hạn ba tháng đối với bất động sản và một tháng đối với động sản kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán tài sản và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó mới được quyền bán cho người khác. Để đảm bảo quyền này, đoạn 2 khoản 3 Điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
    “Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.”
    4.2. Các loại sở hữu chung.
    4.2.1. Sở hữu chung theo phần.
    Điều 216 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
    “1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.
    2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
    Như vậy, sở hữu chung theo phần có các đặc điểm về phần quyền sở hữu và nội dung quyền của các đồng chủ sở hữu như sau:
    - Phần quyềncủa các đồng chủ sở hữu trong quan hệ sở hữu chung theo phần luôn xác định đối với tài sản chung. Phần quyền đó luôn được xác định theo một tỷ lệ nhất định trên tài sản chung, có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau và bao giờ cũng được biểu hiện bằng những đơn vị số học cụ thể. Ví dụ: anh A, B, C cùng sở hữu chung một tài sản trị giá 3 tỷ đồng và anh A sở hữu 1/2, anh B sở hữu 1/3, anh C sở hữu ¼ tổng số tài sản. Cùng với việc xác định tỷ lệ phần quyền, thì việc xác định nghĩa vụ của mỗi đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung là tương ứng với phần quyền của chủ sở hữu chung (nếu các chủ sở hữu chung không có thỏa thuận khác).
    - Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Khoản 1 Điều 222 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
    - Các đồng chủ sở hữu cùng nhau chiếm hữu tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
    - Việc xác định phần quyền trong việc sử dụng tài sản chung theo nguyên tắc thỏa thuận, nếu không thỏa thuận hoặc có tranh chấp sẽ xác định theo nguyên tắc phần quyền bao nhiêu sẽ được hưởng lợi (hoặc chịu rủi ro tương ứng) bấy nhiêu.
    - Phần quyền của đồng sở hữu chủ có thể là đối tượng của giao dịch dân sự.
    - Đối với việc định đoạt tài sản, về nguyên tắc, mỗi đồng chủ sở hữu là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần có quyền quyết định phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác có quyền ưu tiên mua, cụ thể là trong thời hạn ba tháng đối với bất động sản và một tháng đối với động sản kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán tài sản và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó mới được quyền bán cho người khác. Để đảm bảo quyền này, đoạn 2 khoản 3 Điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.”
    4.2.2. Sở hữu chung hỗn hợp.
    Khoản 1, điều 218, BLDS 2005 quy định: “Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản của các chủ thể sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận. Trong sở hữu chung hỗn hợp, các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thỏa thuận theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện về tài sản và số lượng vốn góp để tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
    - Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp là các đơn vị được tổ chức dưới một hình thức nhất định theo quy định của pháp luật hiện hành như công ty, doanh nghiệp trên cơ sở đóng góp vốn, tài sản từ các thành phần kinh tế khác nhau. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tổng giám đốc có quyền thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu trong quản lý, tổ chức, điều hành nhằm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đã được đại hội đồng cổ đông thông qua và hội đồng quản trị quyết định.
    - Tài sản của hình thức sở hữu này bao gồm: các nguồn góp vốn bằng tiền, cửa hàng thương mại, bằng phát minh sáng chế, quyền thuê mướn Các tài sản là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận cũng thuộc khách thể sở hữu chung hỗn hợp.
    - Nội dung của sở hữu chung hỗn hợp được thể hiện ở việc quản lí, chi phối nguồn vốn và tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Điều 218 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định:“Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật này và các quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.”
    4.2.3. Sở hữu chung hợp nhất.
    Sở hữu chung hợp nhất là hình thức sở hữu của hai hay nhiều chủ thể đối với tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia.
    - Phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không xác định được đối với tài sản chung, nên các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, nếu không có thỏa thuận khác.
    - Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc nước, trừ trường hợp thuộc sở hữu chung của cộng đồng.
    * Sở hữu chung hợp nhất thường phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005 về sở hữu chung vợ chồng quy định:
    “1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
    2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
    3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
    4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.”
    Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi hôn nhân còn tồn tại, vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng có thể được chia trong các trường hợp sau:
    + Khi vợ, chồng ly hôn: Nguyên tắc chia đôi trong đó có tính đến công sức đóng góp của một trong hai bên vợ chồng để chia cho hợp lý.
    + Khi một bên vợ hoặc chồng chết: Phần tài sản của người chết chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
    + Khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung của vợ chồng có thể chia theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc chia theo quy định của pháp luật. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp hoặc thu nhập khác và có công sức đóng góp vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình thì họ cũng có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung của gia đình.
    * Sở hữu chung cộng đồng:
    Khoản 1 Điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng”. Ví dụ Nhà thờ, từ đường .là sở hữu cộng đồng của dòng họ
    Để tạo dựng tài sản chung cộng đồng nhằm phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng dân cư trên cơ sở tự nguyện nên khoản Điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:“Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”
    Tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không thể phân chia nên trong quá trình quản lý, sử dụng, các thành viên phải cùng bàn bạc, thỏa thuận. Tùy từng loại tài sản chung cộng đồng mà phương thức quản lý, sử dụng có thể khác nhau. Do mục đích của sở hữu chung cộng đồng nên tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia. Với các phần diện tích và trang thiết bị dùng chung như lối đi, cầu thang thì chủ sở hữu các căn hộ dùng chung có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng và có trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm an toàn cho những người xung quanh.
    * Sở hữu chung trong nhà chung cư:
    Đối với nhà chung cư, việc sở hữu được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 cụ thể hơn so với quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995 ở chỗ khoản 1 Điều 225 Bộ luật dân sự năm 2005 đã khẳng định “Phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong nhà chung cư thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không thể phân chia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự thoả thuận của tất cả các chủ sở hữu”. Như vậy, nếu như trước kia việc phân chia nhà chung cư là không thể thực hiện được thì hiện nay pháp luật thừa nhận việc phân chia trong 2 trường hợp hoặc là pháp luật có quy định về việc phân chia hoặc là có sự thỏa thuận của tất cả các chủ sở hữu.
    Đối với quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu nhà chung cư và trường hợp nhà chung cư bị tiêu hủy thì Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn giữ nguyên như trong quy định của Bộ luật dân sự năm 1995.
    4.2.4. Những quy định khác về sở hữu chung.
    - Chấm dứt sở hữu chung.
    Các căn cứ chấm dứt sở hữu chung là: tài sản được chia, một trong số các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung và tài sản chung không còn.
    + Việc chia tài sản thuộc sở hữu chung được quy định tại Điều 224 Bộ luật dân sự năm 2005 Điều 224 có thêm quy định về việc phân chia quyền sở hữu đối với hiện vậtso với Điều 238 Bộ luật dân sự năm 1995. Điều 224 quy định:“Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”
    + Chấm dứt sở hữu chung thể hiện ở việc một trong số các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung. Ví dụ: Chị A,B cùng sở hữu chung một chiếc túi xách và thỏa thuận với nhau rằng nếu ai thi đỗ cao học với mức điểm cao sẽ được nhận một phần quà chính là trở thành chủ sở hữu của chiếc túi xách đó. Cuối cùng B là người chiến thắng và được hưởng toàn bộ chiếc điện thoại nên việc sở hữu chung đã chấm dứt.
    + Nếu như tài sản chung không còn. Có nghĩa là tài sản - đối tượng sở hữu chung bị mất, bị tiêu hủy Ví dụ: A, B, C cùng sở hữu chung một chiếc lọ hoa cổ nhưng do vô ý, lọ hoa đã bị rơi vỡ, không thể hàn gắn lại được nên việc sở hữu chung cũng bị chấm dứt.
    5. Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
    Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp là những tổ chức được thành lập theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Mục đích thành lập không phải vì lợi nhuận. Mỗi tổ chức đều vì lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng. Vì vậy cơ chế quản lí, sử dụng tài sản của các tổ chức tương đối giống nhau.
    Thực tế ở nước ta, số lượng các tổ chức là rất nhiều như: Đảng cộng sản Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội chữ thập đỏ Tùy thuộc vào mỗi loại hình tổ chức, tính chất, chức năng, nhiệm vụ mà chủ thể sở hữu của các tổ chức được ghi nhận khác nhau. Ví dụ: Đối với tổ chức chính trị, mục 2, Điều 46 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam quy định: “Bộ chính trị quy định thống nhất nguyên tắc, chế độ quản lí tài chính, tài sản của Đảng”. Điều 25 Điều lệ Công đoàn Việt Nam lại quy định: “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam là người chủ sở hữu mọi tài sản của công đoàn Việt Nam”.
    Tài sản thuộc sở hữu của những tổ chức này là những tài sản cụ thể, xác định của một tổ chức như tài sản được đóng góp từ các thành viên và các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật. Phạm vi khách thể thuộc sở hữu của các tổ chức rất phong phú và đa dạng. Tài sản đó có thể là những cơ sở vật chất kĩ thuật (nhà cửa, trụ sở để làm việc, hội họp ) các trang thiết bị dùng để phục vụ cho quá trình hoạt động của tổ chức; các tài sản khác như vốn, các loại quỹ hoặc các tài sản thuộc sở hữu nhà nước đã chuyển giao quyền sở hữu là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó. Tuy nhiên, cũng như các chủ sở hữu khác, các tổ chức cũng không được quyền sở hữu các tài sản thuộc sở hữu nhà nước được quy định tại Điều 17 Hiến pháp và Điều 200 Bộ luật dân sự năm 2005.
    Nội dung sở hữu của các tổ chức cũng được thể hiện ở các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo quy định chung của pháp luật:
    - Quyền chiếm hữu: Các tổ chức kiểm soát tài sản của mình bằng nhiều phương thức khác nhau như ban hành các nội quy, quy định nội bộ về việc quản lý, kiểm kê, kiểm soát tài sản.
    - Quyền sử dụng: Các tổ chức có quyền khai thác công dụng của tài sản để thực hiện chức năng của tổ chức. Quá trình khai thác tài sản ngoài việc phải tuân theo các quy định của pháp luật còn phải phù hợp với mục đích hoạt động đã được quy định trong điều lệ.
    - Quyền định đoạt: Tổ chức có quyền quyết định về việc sử dụng, chuyển giao, mua bán tài sản, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân cần giúp đỡ Là chủ sở hữu, các tổ chức có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng phải phù hợp với mục đích hoạt động được quy định trong điều lệ.
    II. Nhận xét và kiến nghị.
    Các hình thức sở hữu trong BLDS năm 2005 hoàn toàn là một đặc thù riêng có trong pháp luật Việt Nam.
    1. Nhận xét.
    Thực tế có rất nhiều ý kiến trái chiều, mâu thuẫn với nhau về các hình thức sở hữu. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì sự phân chia thành 6 hình thức sở hữu như hiện nay trong Bộ luật dân sự là chưa khoa học và chưa hoàn toàn hợp lý. PGS TS Dương Đăng Huệ (Bộ Tư pháp) cho rằng, như cách phân chia hiện nay, ta đã đồng thời dựa vào 2 tiêu chí để phân loại hình thức sở hữu.
    -Tiêu chí thứ nhất là tính chất chính trị (công hay tư) của việc chiếm hữu tài sản. Chính vì căn cứ vào tiêu chí này mà chúng ta đã chia sở hữu thành sở hữu xã hội chủ nghĩa (với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) và sở hữu phi xã hội chủ nghĩa mà sở hữu tư nhân là đại diện chủ yếu.
    - Thứ hai là dựa vào yếu tố ai là người được coi là chủ sở hữu của tài sản. Nếu toàn dân là chủ sở hữu thì có sở hữu toàn dân, nếu hợp tác xã là chủ sở hữu thì có sở hữu tập thể, nếu hai người trở lên cùng sở hữu một tài sản thì có sở hữu chung; nếu một người (cá nhân) sở hữu thì có sở hữu cá nhân và cuối cùng nếu một tổ chức là chủ sở hữu thì có sở hữu của tổ chức đó (sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội .). Việc phân loại sở hữu như hiện nay chưa hềkhoa học vì nó tiến hành trên cơ sở áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí nêu trên và hậu quả là các hình thức sở hữu ở nước ta được xác định vừa thừa lại vừa thiếu, không phù hợp với thực tiễn khách quan.
    Bên cạnh đó, việc xác định các hình thức sở hữu dựa trên sự liệt kê các loại hình tổ chức cũng không thể đầy đủ. Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhiều loại hình tổ chức khác cũng sẽ xuất hiện. “Nếu BLDS cứ phải chạy theo chúng để sửa đổi cho phù hợp thì không bảo đảm sự ổn định cần thiết của một bộ luật” –nhóm nghiên cứu đã chỉ rõ.
    Hơn thế nữa, về vấn đề quyền sở hữu đất đai, về tên gọi, trong khi Hiến pháp, Luật Đất đai quy định hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai thì BLDS 2005 lại quy định về hình thức sở hữu nhà nước đối với đất đai. Theo các chuyên gia của nhóm soạn thảo, quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về sở hữu đất đai về cơ bản là phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của đất nước hiện nay. Tuy nhiên, “các cơ chế, chính sách cụ thể lại chưa phù hợp, dẫn đến vấn đề đất đai không những trở thành vấn đề kinh tế lớn mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp”. Dẫn chứng rõ nhất chính là chưa làm rõ được bản chất của quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai, thực hiện quyền của mình, nhà nước đã giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định, lâu dài. Như vậy, các chủ thể này chỉ là người sử dụng (người có quyền sử dụng đất). Nhưng ngoài các quyền bình thường như chiếm hữu, sử dụng, người sử dụng đất còn có các quyền khác mang tính định đoạt như cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, góp vốn. “Vậy bản chất của quyền này là gì?”. Theo các chuyên gia, quyền sử dụng đất không còn là một quyền năng bình thường mà đã trở thành một loại vật quyền, phái sinh từ quyền sở hữu đất đai của nhà nước. Tuy nhiên, quan điểm này chưa được thể chế hóa một cách đầy đủ, thỏa đáng trong Luật Đất đai hiện hành.
    Theo nhóm nghiên cứu sửa đổi BLDS, tên gọi của hình thức “sở hữu tập thể” là chưa đúng với bản chất. Theo Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2003, HTX là pháp nhân có tài sản riêng, được hình thành từ tài sản do xã viên đóng góp và các nguồn tài sản khác; HTX có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản này. Như vậy, không phải tất cả xã viên là đồng sở hữu chủ mà chỉ có HTX (với tư cách là pháp nhân) mới có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản của HTX. Về bản chất, sở hữu tập thể trong HTX là sở hữu của pháp nhân.
    Theo GS Morishima, 6 hình thức sở hữu của BLDS Việt Nam không thể hiện sự khác biệt về nội dung của quyền sở hữu. Riêng đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước, Điều 200 BLDS Việt Nam có nêu ra các tài sản là núi non, sông hồ, lãnh hải, thềm lục địa, vùng trời giống như Điều 17 Hiến pháp Việt Nam. Tuy nhiên, GS Morishima nhấn mạnh, các vật này bản chất không thuộc đối tượng của quyền cá nhân và cơ quan nhà nước cũng không có quyền định đoạt. Chúng không thuộc đối tượng của luật dân sự và cũng không phải là các tài sản quy định trong luật dân sự, không thuộc đối tượng của quyền sở hữu. Chúng cần được phân biệt với các tài sản thuộc sở hữu nhà nước khác mà các cơ quan nhà nước có thể định đoạt thông qua các thủ tục hợp pháp thông thường như đối với động sản (ô tô), bất động sản (đất đai).
    Liệu rằng đâu mới là câu trả lời phù hợp nhất? Đâu mới là ý kiến, quan điểm xác đáng nhất? Đó là một câu hỏi rất khó trong tình thế hiện nay.
    2. Kiến nghị.
    Với tình thế cấp thiết như thế, cần phải có những giải pháp phù hợp. Theo PGS TS Dương Đăng Huệ, chỉ nên dùng một yếu tố duy nhất, theo đó chủ thể nào có quyền trực tiếp chiếm hữu sử dụng và định đoạt tài sản thì người đó được coi là sở hữu chủ và căn cứ vào cách thực hiện quyền của người đó đối với tài sản mà xác định tên gọi của hình thức sở hữu cho phù hợp. Ví dụ khi một cá nhân duy nhất là chủ sở hữu tài sản thì đó là sở hữu cá nhân; khi nhiều người tập hợp lại thành một tổ chức có tư cách pháp nhân (trong đó có hợp tác xã) và chính pháp nhân đó thực hiện các quyền chủ sở hữu thì đó là sở hữu pháp nhân; khi hai người (cá nhân, tổ chức) trở lên có quyền cùng nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một tài sản thì đó là một sở hữu chung và khi Nhà nước được trao quyền chủ sở hữu tài sản, mặc dù tài sản đó là của toàn thể nhân dân thì đó là sở hữu nhà nước. Căn cứ vào tiêu chí như vậy thì ở nước ta có 4 hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước; sở hữu pháp nhân; sở hữu cá nhân và sở hữu chung.Đồng tình với ông Huệ, TS. Phùng Trung Tập (Đại học Luật Hà Nội) cho rằng, BLDS 2005 mới liệt kê được các hiện tượng sở hữu tồn tại trong xã hội và có vẻ đánh đồng các hình thức sở hữu với các thành phần kinh tế. Ông Tập đề xuất, BLDS sửa đổi không nên cá biệt hoá một nhóm tổ chức nhất định thành một hình thức sở hữu, bỏ quy định sở hữu tập thể và sở hữu chung hỗn hợp, đồng thời bổ sung hình thức sở hữu hợp tác xã. Nghĩa là, sẽ có 5 hình thức gồm sở hữu nhà nước, sở hữu của các tổ chức, sở hữu hợp tác xã, sở hữu tư nhân và sở hữu chung.
    Cũng có một số ý kiến cho rằng nên giữ nguyên quy định về các hình thức sở hữu như hiện nay. Lý do lớn nhất là Hiến pháp đã quy định cụ thể các hình thức sở hữu nên khi Hiến pháp chưa được sửa đổi thì BLDS không được sửa các quy định về sở hữu.Đồng tình với quan điểm này, Phó Chánh án TAND Tối cao Từ Văn Nhũ cho rằng thực tế kể từ năm 1996 đến nay không có vụ việc nào tranh chấp về hình thức sở hữu. “Về mặt lý luận thì có nhiều tranh luận nhưng chưa được tổng kết” – ông Nhũ nói.
    Trong khi đó, nhóm nghiên cứu thì kiến nghị phải sửa ngay, bởi các quy định về hình thức sở hữu hiện nay là “rất bất hợp lý và không phù hợp với thực tiễn khách quan”. Quan trọng hơn là cần phải sửa để bảo đảm quan niệm về sở hữu và các hình thức sở hữu của Việt Nam phù hợp với thông lệ của thế giới.Những người theo quan điểm này đề xuất BLDS chỉ quy định ba hình thức sở hữu gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu riêng (sở hữu của cá nhân, sở hữu của pháp nhân) và sở hữu chung.
    Theo GS Morishima, cho dù là sở hữu nhà nước thì các điều khoản về các hình thức sở hữu trong BLDS Việt Nam đều quy định rằng cơ quan nhà nước cần phải quản lý và sử dụng tài sản nhà nước theo quy định pháp luật. “Việc quản lý và sử dụng ấy bao gồm cả việc định đoạt với tài sản cho nên sở hữu nhà nước càng không phải là quy định về quyền sở hữu có nội dung đặc biệt về quyền lợi”, GS Morishima khẳng định.
    Vấn đề về các hình thức sở hữu vẫn là một đề tài có sức hút lớn, gây ra rất nhiều tranh cãi. Cho đến nay, vẫn chưa có một kết luận cuối cùng, thực sự hợp lý về vấn đề này. Vì vậy, trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, cần phải ghi nhận các chế độ sở hữu theo Hiến pháp, đồng thời trong Bộ luật dân sự, là các hình thức sở hữu: toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu pháp nhân, sở hữu tư nhân và sở hữu chung. Nhưng, bên cạnh đó, cần thiết phải bổ sung các quy định mang tính nguyên tắc trong bộ luật dân sự làm cơ sở cho các quy chế pháp lý đối với các loại tài sản đặc thù do các luật chuyên ngành điều chỉnh. Ví dụ: quyền sử dụng đất, sở hữu trí tuệ, nhà chung cư, các loại giấy tờ có giá v.v Tóm lại, với thực tiễn bất cập như thế, cần sớm đưa ra những giải pháp hợp lý nhất và khoa học nhất.
    C. KẾT LUẬN.
    Thực tế, các hình thức sở hữu là một phần không thể thiếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này, vẫn còn rất nhiều tranh cãi, mâu thuẫn. Liệu rằng đến khi nào mới có thể có những kết luận cuối cùng cho câu hỏi hóc búa về các hình thức sở hữu này? Các hình thức sở hữu vẫn cứ tồn tại và vẫn có những bất cập. Vậy nên, cần phải có những giải pháp xác đáng để sớm giải quyết tình trạng này, giúp cho các hình thức sở hữu tồn tại trong BLDS 2005 một cách hiệu quả nhất, phù hợp nhất với thực tiễn khách quan đồng thời ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam hơn nữa.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...