Luận Văn Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

    CHƯƠNG I
    HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT kinh doanh CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG


    I/.CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA DOANH NGHIỆP kinh doanh TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG.
    1/.Thị trường, cơ chế thị trường, đặc trưng của cơ chế thị trường.
    ãThị trường
    Thị trường là một phạm trù kinh tế, sự ra đời của nó gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về thị trường. Có quan điểm cho rằng thị trường là tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nói cách khác thị trường hàng hoá là tổng thể các mối quan hệ mua bán, trao đổi và tiêu thụ hàng hoá bằng tiền. Một quan điểm khác cho rằng thị trường là tổng số nhu cầu (hoặc tập hợp về một loại hàng hoá nào đó) là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền tệ. Tuy nhiên, dưới góc độ chung nhất, chúng ta có thể hiểu thị trường bằng khái niệm chung nhất “thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình lưu thông” Qua đó các quyết định của công ty về việc sản xuất đầu tư được chung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả.
    ãCơ chế thị trường
    Cơ chế thị trường là một hình thức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định các vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Các bộ phận cấu thành của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường.
    -Cung hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn có khả năng sản xuất để bán theo mức giá nhất định. Như vậy, cung hàng hoá phản ánh mối quan hệ trực tiếp trên thị trường của hao biến số lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng và giá cả trong một điều thời gian nhất định.
    -Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá người mua muốn và có khả năng mua theo mức giá nhất định, khi giá tăng thì cầu giảm.
    Cung- cầu và giá cả thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau không tách rời nhau. Giá cả tỷ lệ nghịch với nhu cầu và tỷ lệ thuận với cung cầu hàng hoá.
    Cơ chế thị trường mới du nhập vào nước ta, song đã nhanh chóng phát huy tác dụng của mình đối với nền kinh tế. Chỉ vài năm, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi rõ rệt, đặc biệt đã tạo ra được một vài môi trường kinh doanh sôi động với nhiều thành phần kinh tế tham gia.


    ãĐặc trưng của cơ chế thị trường.
    Nền kinh tế nước ta hiện nay là một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Trước hết nó mang những đặc trưng của nền kinh tế thị trường tự do. Đó là thể chế kinh tế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật. Các thành phần kinh tế vừa liên kết vừa hợp tác và phát triển đạt tới trình độ xã hội hoá cao.
    Tự do hoá kinh doanh và cạnh tranh tạo mọi khả năng cho thị trường, phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất. Cạnh tranh là qui luật của kinh tế thị trường là động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Trong điều hành các hoạt động kinh tế (cơ chế quản lý). Các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu dựa trên sự hướng dẫn của qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, các mối liên hệ kinh tế. Tiền tệ trở thành thiếu do hiệu quả kinh tế của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, quan hệ trở thành quan hệ thống trị trên thị trường.
    Mọi yếu tố của sản xuất phải đi vào thị trường. Để nền kinh tế vận hành bình thường cần phải chuyển đổi sang cơ chế kinh tế của các xí nghiệp kinh doanh dịch vụ, đặt nó thực sự đối mặt với thị trường.
    Ngoài những đặc điểm trên, nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay có những đặc điểm riêng. Mọi hoạt động kinh tế diễn ra đều có sự quản lý vĩ mô của nhà nước.


    2/.Vai trò kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt sau.
    -Do có tổ chức hoạt động kinh doanh của các xí nghiệp dịch vụ nói riêng thực hiện chức năng xã hội lưu chuyển hàng hoá nên các doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ nhanh hàng hoá, tiết kiệm thời gian tiêu thụ thu hồi vốn nhanh.
    -Các tổ chức kinh doanh dịch vụ thông qua việc thực hiện lưu chuyển hành khách và dịch vụ làm cho thị trường hàng hoá mở rộng ra, phục vụ hành khách được tiêu dùng nhanh hơn, phí lưu thông mua sắm vật tư ít hơn so với các đơn vị sản xuất thực hiện cả chức năng mua bán hàng hoá và cuối cùng vật tư được sử dụng có hiệu quả hơn trong nền kinh tế.
    -Do đó các doanh nghiệp vật tư đảm bảo nhiệm khâu mua bán vật tư trong nền kinh tế với mạng lưới sâu rộng trong cả nước và mặt hàng đa dạng, phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị tiêu dùng mua bán vật tư với số lượng và thời gian theo đúng yêu cầu của sản xuất và khả năng thanh toán của mình. Nhờ đó giảm được một lượng dự trữ trong khâu sản xuất, tiết kiệm được vốn cho doanh nghiệp sản xuất.
    Vai trò to lớn của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân không chỉ thể hiện ở chức năng lưu chuyển hành khách mà còn đóng vai trò là người tổ chức sản xuất thông qua mua bán, giao dịch, dịch vụ .phát hiện ra những cơ sở có khả năng sản xuất và tạo điều kiện cho các đơn vị ấy sản xuất.
    Các doanh nghiệp dịch vụ Hàng không thực sự đóng vai trò tổ chức những mối liên kết trong nền kinh tế xã hội và tổ chức việc tiêu thụ hợp lý các nguồn vật tư hiện có.


    3.Các nhóm chức năng thị trường.
    Gồm 4 chức năng thị trường sau:
    ãChức năng thực hiện: Đây là chức năng quan trọng nhất không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp kinh doanh mà còn có ý nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp kết thúc việc thực hiện hàng hoá sẽ ảnh hưởng mang tính chất, bản chất đến cuối cùng của quá trình tái sản xuất mở rộng.



     
Đang tải...