Báo Cáo Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế









    Tóm tắt. Sau 20 năm đổi mới, thị trường tín dụng Việt Nam vẫn trong tình trạng không có sự thống nhất, bị phân mảng và còn chịu sự can thiệp khá lớn từ Chính phủ cả phía cung lẫn phía cầu tín dụng. Tình trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân bổ các nguồn lực kinh tế theo hướng hiệu quả, tới tăng trưởng kinh tế và mức độ hội nhập quốc tế của thị trường này. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, đã trở thành thành viên chính thức của WTO, do vậy, việc hoàn thiện thị trường tín dụng theo hướng tạo ra tính thống nhất và mang tính cạnh tranh cao đã trở thành một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế.
    Có thể chỉ ra những nguyên nhân của thực trạng này như sau: một là, vẫn còn có sự can thiệp khá
    lớn của Nhà nước tới doanh nghiệp và ngân hàng thương mại Nhà nước; hai là, bản thân các doanh nghiệp và ngân hàng đều chưa trở thành những chủ thể kinh tế đủ mạnh trong môi trường cạnh tranh; ba là, do tính chưa hoàn thiện của thị trường này ở Việt Nam. Để phát triển và hoàn thiện thị trường tín dụng Việt Nam, cần tới các giải pháp hướng tới giảm thiểu và xoá bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước tới hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng; đẩy mạnh tiến trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Khi đó, thị trường tín dụng Việt Nam sẽ là một “sân chơi chung” cho các lực lượng tham gia thị trường và hoạt động theo các nguyên tắc thị trường, hiệu quả hoạt động của thị trường theo đó sẽ được cải thiện.







    Sau 20 năm đổi mới, thị trường tín dụng Việt Nam vẫn trong tình trạng không có sự thống nhất, bị phân mảng và còn chịu sự can thiệp khá lớn từ Chính phủ cả phía cung lẫn phía cầu tín dụng. Tình trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phân bổ các nguồn lực kinh tế theo hướng hiệu quả, tới tăng trưởng kinh tế và mức độ hội nhập quốc tế của thị trường này. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, đặc biệt đã trở thành thành


    __ __


    17

    viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), việc hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng theo hướng thống nhất và mang tính cạnh tranh cao đã trở thành một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế.
    Thị trường tín dụng Việt Nam đã được hình thành và phát triển trong quá trình đổi mới kinh tế. Bên cạnh thị trường tín dụng chính thức ngày càng được mở mang, thì hoạt động tín dụng không chính thức còn khá phổ biến (vay tư nhân, huy động từ bạn bè, gia đình). Việc tiếp cận nguồn vốn này của doanh nghiệp và các hộ kinh doanh dễ dàng do không có những






    “rào cản” như: qui định về vật thế chấp hay dự án kinh doanh, các thủ tục hành chính khi vay vốn. Tuy nhiên, nguồn vốn từ khu vực tín dụng không chính thức thường không ổn định, chi phí vay cao do tư nhân luôn đặt mức lãi suất cao so với thị trường tín dụng chính thức. Những kiểm soát quá mức, kèm theo những thủ tục hành chính phức tạp của Nhà nước đã khiến cho tín dụng không chính thức trong nền kinh tế Việt Nam còn khá phổ biến, nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tiếp cận được vốn từ khu vực tín dụng chính thức.
    Sự phát triển của thị trường tín dụng chính thức của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới kinh tế đã có sự tham gia của nhiều lực lượng khác nhau do kết quả của quá trình cải cách khu vực tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế gồm: các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, các NHTM cổ phần, các NHTM liên doanh, NHTM nước ngoài, các công ty tài chính và các tổ chức tín dụng. Thị trường tín dụng Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, trên thị trường tín dụng này vẫn chưa có được một sự thống nhất và bình đẳng giữa các lực lượng tham gia thị trường. Mặc dù, trong những năm gần đây thị phần của các NHTM nhà nước có xu hướng thu hẹp, nhưng các ngân hàng này vẫn giữ vai trò chi phối trong cả huy động vốn và cho vay do chiếm tới 56,9% thị phần (năm 2005, các NHTM nhà nước có thị phần huy động vốn từ 75,2 - 80% và thị phần cho vay từ 76,9 - 79,9%); thị phần của các NHTM cổ phần là 26,5%, khối các ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài chiếm tới 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống các NHTM nhưng chỉ chiếm 9,4% thị phần [1]. Trong quá trình hoạt động, mỗi loại ngân hàng lại thường tập trung vào một nhóm khách hàng nhất định, trong đó các NHTM nhà nước thường tập trung vào cho vay đối với DNNN. Tỷ trọng tín dụng dành cho DNNN của NHTM nhà nước đã giảm từ 49,6% tổng dư nợ vào năm 1997 xuống còn 39,6% vào năm 2002, nhưng từ cuối năm 2002 đến nay, tỷ

    trọng này lại tăng lên trên 50% [1]. Các NHTM cổ phần, các NHTM nước ngoài chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
    Trong điều kiện thị trường tín dụng chưa có sự thống nhất, còn bị phân mảng sẽ không có được mặt bằng chung về lãi suất, hơn nữa, lãi suất cũng chưa thực sự được hình thành theo tín hiệu thị trường, do vậy, mức độ nhạy cảm của các chủ thể kinh tế đối với lãi suất còn ở mức thấp. Đây là những trở ngại rất lớn khi nền kinh tế Việt Nam chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hoạt động trên “sân chơi” quốc tế, trong đó mọi chủ thể kinh tế đều bình đẳng trong hoạt động.
    Phân tích nguyên nhân của tình hình trên, chúng tôi cho rằng: cho đến nay ở Việt Nam vẫn còn có sự can thiệp trực tiếp khá lớn của Nhà nước tới DNNN và NHTM nhà nước; mặt khác, bản thân các doanh nghiệp, ngân hàng đều chưa trở thành những chủ thể kinh tế đủ mạnh trong môi trường cạnh tranh do tính chưa hoàn thiện của thị trường này ở Việt Nam. Vì vậy, để có được một thị trường tín dụng thống nhất, mang tính cạnh tranh cao, Việt Nam cần phải nỗ lực trong việc xoá bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước tới doanh nghiệp và ngân hàng; đẩy mạnh công cuộc cải cách DNNN; tiến hành cải cách mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh và những chủ thể cạnh tranh thực sự trên thị trường tín dụng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...