Tiến Sĩ Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán ở các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 6/9/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1
    PHẦN MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
    Mọi đơn vị hoạt động vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận đều quan tâm đến
    hiệu quả thể hiện ở kết quả đầu ra là lớn nhất và chi phí đầu vào là thấp nhất. Để
    đạt được mục đích đó thì các nhà quản lý phải đặc biệt quan tâm đến “quản lý
    kinh tế tài chính”. Trên thực tế, có rất nhiều công cụ khác nhau để quản lý tài
    chính như: Hệ thống định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật, các chính sách tài chính,
    quy chế, quy định của đơn vị, hệ thống thông tin kế toán . Trong các công cụ
    trên thì thông tin kế toán đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong hệ
    thống thông tin cho việc ra quyết định của nhà quản lý các cấp. Mọi hoạt động
    kinh tế tài chính cần được phản ánh bằng các thông tin của kế toán thông qua
    việc thu thập, phân loại, tính toán, ghi chép, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát
    sinh để cung cấp thông tin kinh tế tài chính của một đơn vị cho các đối tượng sử
    dụng. Đối với cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), kế toán
    là phương tiện phản ánh thường xuyên, kịp thời, đầy đủ về tình hình tài sản và
    kết quả các hoạt động của đơn vị. Đối với Nhà nước kế toán là công cụ kiểm tra,
    kiểm soát quá trình lập và chấp hành dự toán thu chi. Như vậy, kế toán với hai
    chức năng là thông tin và kiểm tra, kiểm soát đã khẳng định được vị trí và vai
    trò quan trọng của mình trong hoạt động quản lý. Tuy nhiên vai trò quan trọng
    của kế toán chỉ phát huy tác dụng khi công tác kế toán được tổ chức khoa học,
    hợp lý. Với chức năng cung cấp thông tin và kiểm tra các hoạt động kinh tế - tài
    chính nên công tác kế toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của
    công tác quản lý ở một tổ chức. Thêm vào đó, nó còn ảnh hưởng đến việc đáp
    ứng các yêu cầu quản lý khác nhau của các đối tượng có quyền lợi trực tiếp hoặc
    gián tiếp liên quan đến hoạt động của tổ chức, trong đó có cơ quan chức năng
    của Nhà nước.
    Hiện nay Việt Nam đã có chế độ kế toán (CĐKT) áp dụng cho lĩnh vực
    công và các quy định cụ thể về kế toán áp dụng cho các đơn vị HCSN. Trên thực
    tế, thông tin kế toán đã đóng góp vai trò không nhỏ đối với công tác quản lý tài
    chính tại các đơn vị này. Tuy nhiên, qua thực tiễn vận hành cùng với sự thay đổi
    trong cơ chế quản lý tài chính theo hướng hội nhập với nền tài chính và kế toán
    công quốc tế và đặc biệt là xu hướng cải cách tài chính công đã và đang thực
    hiện đã chứng tỏ thông tin kế toán, sản phẩm của tổ chức công tác kế toán hiện 2
    chưa đáp ứng được các đòi hỏi ngày càng cao xét trên cả hai góc độ hiệu quả
    công việc kế toán và hiệu quả quản lý tài chính. Mặt khác, sau kết luận 63 –
    KL/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 7 khóa XI ngày 27/5/2013 cho
    phép xây dựng giá dịch vụ sự nghiệp công theo 3 mức: (i) Mức giá tính đủ tiền
    lương; (ii) Mức giá tính đủ tiền lương và chi phí quản lý và; (iii) Mức giá tính đủ
    lương, chi phí quản lý và khấu hao tài sản cố định; thì vấn đề về tổ chức công
    tác kế toán tại đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các đơn vị SNCL trong
    lĩnh vực khoa học công nghệ nói riêng lại càng cần thiết. Trong những năm qua,
    lĩnh vực khoa học và công nghệ luôn được Đảng, Nhà nước và các địa phương
    quan tâm, từ việc ban hành Nghị quyết, các văn bản Luật, xây dựng định hướng
    chiến lược, xây dựng nguồn nhân lực, tăng kinh phí đầu tư, với mục tiêu nhằm
    thúc đẩy phát triển sự nghiệp khoa học và công nghệ tạo nền tảng vững chắc cho
    phát triển kinh tế của đất nước.
    Thực hiện Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25/7/2011 của Thủ tướng
    Chính phủ phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ
    chủ yếu giai đoạn 2011 – 2020, trong đó đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục đổi mới
    một cách mạnh mẽ, cơ bản, toàn diện và đồng bộ cơ chế quản lý và hoạt động khoa
    học và công nghệ. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH và CN đã
    tiến hành xây dựng Đề án “Tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ
    chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ” cho giai đoạn
    2020. Một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đổi mới là phải đổi mới
    cơ chế quản lý kinh tế, tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
    Giai đoạn 2011 – 2015, hoạt động khoa học và công nghệ nước ta đã có
    nhiều đổi mới và góp những thành tựu quan trọng trong tất cả những lĩnh vực
    kinh tế quốc dân, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và công cuộc đổi mới, xây dựng
    đất nước. Nhìn chung, kết quả triển khai Đề án đổi mới cơ chế quản lý KH - CN đã
    có tác động tích cực và hiệu quả trong việc thúc đẩy hoạt động KH và CN, đóng
    góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm
    qua. Hệ thống pháp luật về KH - CN cơ bản được hoàn thiện, tạo môi trường
    thuận lợi và đồng bộ cho hoạt động sáng tạo đổi mới; năng lực nghiên cứu khoa
    học và phát triển công nghệ được nâng cao và có bước tiến đáng kể; bộ máy
    quản lý KH-CN được kiện toàn; cơ chế tài chính và cơ chế quản lý nhiệm vụ
    KH-CN trọng điểm từng bước được cải thiện; đã triển khai mạnh mẽ việc thực
    hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các tổ chức KH và CN công lập.
    Trước tình hình đó vấn đề đặt ra là các cơ chế chính sách quản lý kinh tế đi cùng 3
    áp dụng cho các ĐVSNKH-CNCL đã phù hợp hay chưa. Một trong những
    nguồn thông tin quan trọng để các nhà quản lý làm căn cứ bổ sung, điều chỉnh
    chính sách, không ngừng đổi mới tạo ra sự bình đẳng nhằm thúc đẩy hoạt động
    nghiên cứu thu hút nhân tài là lấy từ thông tin kế toán. Kế toán là công cụ quan
    trọng để quản lý vốn, tài sản và phản ánh đầy đủ hoạt động thu chi, hoạt động dịch
    vụ của các ĐVSNKH-CNCL.
    Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài
    “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp khoa học -
    công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ” làm đề tài nghiên cứu
    cho luận án Tiến sĩ kinh tế của mình.
    2. Mục đích nghiên cứu của Luận án
    - Về lý luận:
    + Nghiên cứu, hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác
    kế toán trong đơn vị sự nghiệp công lập trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
    kinh tế quốc tế.
    + Xây dựng những quan điểm, định hướng đổi mới hệ thống tổ chức kế
    toán các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và những quan điểm, định hướng đổi
    mới tổ chức công tác kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    - Về thực tiễn:
    + Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tổ chức công tác kế toán trong các
    ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN. Chỉ ra những ưu điểm và hạn chế, làm
    cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện.
    + Đề xuất những giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương
    pháp kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực trạng về tổ chức công
    tác kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    - Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ đề cập đến việc hoàn thiện tổ chức
    công tác kế toán, nội dung, phương pháp kế toán bao gồm tổ chức công tác kế
    toán tài chính, tổ chức công tác kế toán quản trị, tổ chức kiểm tra kế toán và tổ chức
    ứng dụng công nghệ thông tin trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    Riêng về tổ chức công tác kế toán quản trị chỉ dừng lại ở tổ chức thu thập, xử lý
    và cung cấp thông tin tổ chức phân loại chi phí, xác định chi phí, tổ chức phân
    tích thông tin chi phí, nhiệm vụ cho ra quyết định. Mặt khác những đơn vị, tổ 4
    chức khoa học công nghệ mang tính chất vừa là cơ quan quản lý Nhà nước, vừa
    là đơn vị sự nghiệp công lập thì Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về hoạt động
    sự nghiệp công lập của các đơn vị này.
    4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
    Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp
    khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ” phù hợp
    với điều kiện đổi mới hệ thống các cơ chế, chính sách của ngành KH và CN ở
    nước ta.
    Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được cơ quan chức năng của Bộ KH và CN
    sử dụng vào việc nghiên cứu đề xuất các cơ chế quản lý tài chính mới cho các
    đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập thuộc Bộ KH và CN, tuyên truyền
    rộng rãi cho các đơn vị có sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ.
    Đồng thời qua đó cũng là một bước làm cho cán bộ quản lý tài chính của
    ngành KH và CN, có điều kiện đi sâu, đi sát cơ sở nắm bắt được tình hình thực
    tiễn trong công tác quản lý tài chính, từ đó tham mưu những cơ chế, chính sách
    mới cho ngành KH và CN.
    Kết quả của nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa trong công
    tác quản lý tài chính, quản lý khoa học công nghệ của các ĐVSNKH-CNCL thuộc
    Bộ KH và CN.
    Những nghiên cứu của luận án còn là cơ sở, tiền đề cho các hoạt động
    nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý tài chính đối với việc sử dụng
    kinh phí của ngành KH và CN.
    Cuối cùng kết quả nghiên cứu của luận án là căn cứ khoa học và thực tiễn
    để hoàn thiện tổ chức công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán và phương pháp
    kế toán trong các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Để có được các đánh giá thực tiễn tác giả tập trung khảo sát tại các đơn vị
    sự nghiệp công có thực hiện hoạt động về khoa học công nghệ theo quy mô mẫu
    gồm 31 đơn vị. Với quy mô mẫu khảo sát như trên tác giả thu thập thông tin về
    thực trạng tổ chức công tác kế toán tại các đơn vị khảo sát chủ yếu trên cơ sở 3
    phương pháp chính là: Phát triển điều tra, thực hiện phỏng vấn sâu nhân viên kế
    toán, phụ trách kế toán và tham gia tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại đơn vị
    mà qua phỏng vấn sâu tác giả thấy là điển hình. 5
    Số liệu sơ cấp thu được từ điều tra thông qua bảng hỏi và phỏng vấn sâu
    do tác giả thực hiện. Số liệu thứ cấp chủ yếu từ các báo cáo của Vụ tài chính;
    các BCTC các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN và từ các kết quả nghiên
    cứu đã được công bố của Tác giả trong nước và nước ngoài.
    Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
    nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát thực tế để phân tích, so sánh và tổng
    hợp thông tin. Đề tài sử dụng linh hoạt phương pháp nghiên cứu định tính,
    nghiên cứu định lượng và các phương pháp của thống kê, so sánh, tổng hợp,
    phân tích . để xử lý nguồn thông tin thu được làm cơ sở đưa ra các nhận định,
    đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán.
    6. Tổng quan những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
    Như đã trình bày trong các phần trước, tài chính trong ĐVSN mang đặc
    điểm của tài chính công và vì vậy, kế toán trong ĐVSN cũng mang đặc điểm
    của kế toán công. Do đó, việc nghiên cứu về kế toán công là cơ sở để nghiên
    cứu kế toán trong các ĐVSN; hay nói cách khác nghiên cứu kế toán công cũng
    là nghiên cứu kế toán trong các ĐVSN bởi kế toán trong các đơn vị sự nghiệp là
    một bộ phận của kế toán công. Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình
    nghiên cứu về lĩnh vực kế toán công nói chung và kế toán trong các ĐVSN nói
    riêng. Dưới đây là tổng quan về một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.
    6.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
    Trong các nghiên cứu trước đây về tổ chức hạch toán kế toán các tác giả
    chủ yếu đề cập đến nguyên lý và nguyên tắc chung về tổ chức hạch toán kế toán
    và đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong một số loại hình doanh nghiệp đặc
    thù. Riêng lĩnh vực tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị HCSN, trên thế
    giới chỉ có một số ít tác giả nghiên cứu. Ba trong số các tác giả đó là Earl
    R.Wilson, Leon E.Hay, Susan C.Kattelus đã cùng tham gia viết cuốn sách nổi
    tiếng với tiêu đề là “Kế toán Nhà nước và các tổ chức phi lợi nhuận”
    (Accounting for Governmental and Nonprofit Entities). Đây có thể coi là một
    công trình nghiên cứu khá công phu về các khía cạnh hoạt động khác nhau trong
    các đơn vị HCSN nói chung. Các nội dung nghiên cứu trong cuốn sách bao gồm:
    Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung, hướng dẫn cách ghi nhận các sự
    kiện, cách thức lập các báo cáo tài chính cuối kỳ. Nghiên cứu cũng đi sâu vào
    phân tích tổ chức hạch toán kế toán của một số lĩnh vực đặc thù như giáo dục, y
    tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng . 6
    Gần đây, trên thế giới có công trình nghiên cứu của các chuyên gia về kế
    toán lĩnh vực công như: GS.TS. Jess W.Hughes - Trường đại học Old Dominition,
    Paul sutcliffe - Chuyên gia tư vấn cao cấp thuộc liên đoàn kế toán quốc tế,
    Gillian Fawcett – Giám đốc lĩnh vực công ACCA toàn cầu, Reza Ali – Giám
    đốc phát triển kinh doanh ACCA khu vực Asean và Úc . trong các công trình
    nghiên cứu về thực trạng áp dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế, tình hình xây
    dựng và áp dụng trong các quốc gia phát triển và đang phát triển trên thế giới
    như Anh, Ấn Độ, Úc, Mỹ . dựa trên 2 cơ sở kế toán là cơ sở kế toán dồn tích và
    cơ sở kế toán tiền mặt được giới thiệu trong hội thảo về thực trạng áp dụng
    chuẩn mực kế toán công quốc tế của các nước trên thế giới do ngân hàng thế
    giới phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức tại Việt Nam từ ngày 17/4/2007 đến
    24/4/2007. Các công trình nghiên cứu này có điểm chung là nghiên cứu các mô
    hình áp dụng và xây dựng chuẩn mực kế toán lĩnh vực công, trên cơ sở đó đã
    làm rõ nội dung tổ chức công tác kế toán từ khâu chứng từ cho đến lập các
    BCTC trên cơ sở dồn tích và cơ sở kế toán tiền mặt cũng như tác dụng của mô
    hình này trong việc công khai và minh bạch hệ thống tài chính của Chính phủ,
    đặc biệt các nghiên cứu này cũng chỉ ra các ích lợi từ việc vận dụng chuẩn mực
    kế toán công quốc tế và cơ sở kế toán dồn tích. Hoặc công trình nghiên cứu của
    ba tác giả Bernardino Benito, Vicente Montesinos, Francisco Bastida về tài
    chính tư nhân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Tây Ban Nha đăng trên
    Critical Perspectives on Accounting 19 (2008) trang 963 – 986, nghiên cứu đề
    cập đến nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến tài chính khu vực công và nhấn mạnh đến
    những đóng góp của nhân tố này cũng như khoản thanh toán của Chính phủ nói
    chung đối với bên thứ ba. Về cơ bản sợi dây liên hệ giữa tổ chức hạch toán kế
    toán và hiệu quả quản lý tài chính chỉ được các tác giả tập trung vào việc nghiên
    cứu sự ảnh hưởng của thông tin kế toán đến tính minh bạch trong chi tiêu ngân
    sách của Chính phủ nói chung.
    Trong bài báo “Accruals accounting in the public sector: A road not always taken”
    (tạm dịch là “Kế toán dồn tích trong khu vực công: Không phải luôn được sử dụng”), các
    tác giả “http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1044500510000880”
    và Ciaran Connolly đã đề cập đến một vấn đề trong tổ chức công tác kế toán, đó
    là hai nguyên tắc kế toán sử dụng trong khu vực công là kế toán dồn tích và kế
    toán tiền mặt, trong đó nghiên cứu tình hình thực tế của việc lựa chọn hai
    nguyên tắc này trong kế toán công ở Anh và Cộng hòa Ireland. Ban đầu, nhiều 7
    người tin tưởng rằng thực hiện kế toán dồn tích sẽ là cơ sở cung cấp thông tin
    thích hợp hơn cho việc đưa ra các quyết định trong hoạt ở khu vực công. Tuy
    nhiên nghiên cứu này cho thấy trong khi việc sử dụng kế toán dồn tích mang lại
    hiệu quả tích cực ở Anh thì ở Cộng hòa Ireland, nguyên tắc này không được lựa
    chọn bởi sự không thích hợp của nó, mặc dù tình hình thực tế ở Ireland được
    cho rằng tương tự như ở Anh. Nghiên cứu này đặt ra cho các nhà quản lý kế
    toán công câu hỏi về việc lựa chọn nguyên tắc kế toán sử dụng trong tổ chức của
    mình một cách phù hợp. Nguyên nhân dẫn tới sự lựa chọn nguyên tắc kế toán sử
    dụng trong khu vực công của hai quốc tế trên cũng được đề cập đến trong
    nghiên cứu này.
    Nghiên cứu của các tác giả Nur Barizah Abu Bakar với tiêu đề “Public
    Sector Accounting Research in Malaysia: Identifying Gaps and Opportunities”
    (tạm dịch là: Nghiên cứu kế toán công ở Malaysia: Xác định khoảng trống và cơ
    hội) đã được tiến hành để xác định khoảng trống tồn tại trong nghiên cứu kế
    toán công ở Malaysia. Hai tác giả này cho rằng các nghiên cứu về kế toán trong
    lĩnh vực công mặc dù mang ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quốc gia
    nhưng hầu như nó chỉ được thực hiện chủ yếu ở các nước có nền kinh tế phát
    triển cao như Anh, Mỹ, Úc và các nước Châu Âu. Những nghiên cứu về các
    quốc gia khác trên thế giới chỉ đại diện cho một tỷ lệ nhỏ các nghiên cứu về kế toán
    trong lĩnh vực công đã tổng hợp và giúp đưa ra định hướng để xác định việc nghiên
    cứu về kế toán công trong bối cảnh các nước đang phát triển.
    Một nghiên cứu khác trong lĩnh vực tổ chức công tác kế toán công là
    nghiên cứu của Lasse Oulasvirta, trường đại học Tampere ở Phần Lan với tiêu
    đề “The ruluctance of a developed country to choose International Puplic Sector
    Accounting Standards of the IFAC. A critical case study” (tạm dịch là: Sự thờ ơ
    của các nước phát triển trong việc lựa chọn áp dụng tiêu chuẩn kế toán công
    quốc tế của Liên đoàn kế toán Quốc tế - Nghiên cứu trường hợp điều chỉnh).
    Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân một nước phát triển
    điển hình như Phần Lan từ chối áp dụng tiêu chuẩn kế toán công quốc tế trong
    hoạt động tổ chức công tác kế toán của mình. Bài viết cũng đề cập đến tình hình
    áp dụng tiêu chuẩn kế toán công quốc tế trong hoạt động tổ chức công tác kế
    toán ở các nước Châu Âu và đặc biệt ở khu vực Bắc Âu. Qua nghiên cứu này,
    vấn đề được đặt ra đối với công tác tổ chức kế toán công là ứng dụng một cách
    linh hoạt, hợp lý các tiêu chuẩn kế toán công quốc tế đối với từng quốc gia. 8
    Nghiên cứu về kế toán công của bốn tác giả Ehsan Rayegan, Mehdi
    Parveizi, Kamran Nazari và Mostafa Emami với tiêu đề: “Kế toán công: Đánh
    giá về lý thuyết, mục tiêu và các tiêu chuẩn” (“Government accounting: An
    Assessment of Theory, Purposes and Standards”) đã đưa ra sự tổng hợp các vấn
    đề trong thực hiện kế toán của các đơn vị công lập, trong đó bao gồm công tác tổ
    chức kế toán dựa trên hai nguyên tắc là kế toán tiền mặt và kế toán dồn tích. Bài
    viết cũng đề cập đến vai trò, trách nhiệm của Chính phủ đối với công tác kế
    toán; chương trình đổi mới công tác quản lý tài chính công và các vấn đề liên
    quan đến NSNN. Đề xuất một số nguyên tắc kế toán mở rộng để thúc đẩy trách
    nhiệm trong việc giải trình thực hiện công tác kế toán liên quan đến nghĩa vụ
    kinh tế và chính trị cũng được đưa ra trong nghiên cứu này.
    Trên đây, luận án đã trình bày một số nghiên cứu của các tác giả nước
    ngoài liên quan đến tổ chức công tác kế toán công. Các nghiên cứu này rất đa
    dạng, phong phú. Những vấn đề nghiên cứu thường xoay quanh hiệu quả thực
    hiện các nguyên tắc kế toán, việc áp dụng CMKT trong thực hiện công tác kế
    toán hay nêu ra khung lý thuyết trong tổ chức công tác kế toán, . Tuy nhiên hầu
    hết các nghiên cứu này được thực hiện ở những nước có nền kinh tế phát triển
    cao và là nghiên cứu chung về lĩnh vực kế toán công. Chính vì vậy, khoảng
    trống nghiên cứu cho các trường hợp cụ thể và vận dụng các nguyên tắc trong tổ
    chức công tác kế toán là rất lớn, đặc biệt ở những nước đang phát triển và cũng
    chưa nghiên cứu cụ thể cho tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSNCL thuộc lĩnh
    vực KH và CN.
    6.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
    Ở Việt Nam, cho đến nay chỉ có cơ chế chính sách tài chính và chế độ kế
    toán áp dụng cho khu vực công, chưa có chuẩn mực kế toán công áp dụng cho
    các đơn vị sự nghiệp, mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng thế
    giới, quỹ tiền tệ quốc tế và của Bộ Tài chính, kế toán lĩnh vực công của Việt
    Nam hiện đang áp dụng trên cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh (đối với kế
    toán ngân sách) và cơ sở dồn tích có điều chỉnh (đối với kế toán đơn vị hành
    chính sự ngiệp) do vậy việc tiếp thu các kinh nghiệm trên thế giới còn gặp nhiều
    khó khăn vì cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh được các quốc gia trên thế giới
    áp dụng từ thế kỷ 16 đối với cả hai khu vực công và tư, cho đến nay cả hai khu
    vực này đã có những bước tiến dài xây dựng các nguyên tắc kế toán cho phù
    hợp với tình hình mới và chủ yếu hiện đang áp dụng cơ sở kế toán dồn tích. Ở
    Việt Nam, hệ thống kế toán công bao gồm ba bộ phận: Kế toán ngân sách, kế 9
    toán HCSN và kế toán các quỹ đặc thù. Đối với kế toán công, trước năm 2006
    nền tảng được đề cập đến chủ yếu nội dung đơn vị HCSN bám theo Quyết định
    số 999/QĐ-CĐKT ban hành ngày 02/11/1996. Gần đây là nghiên cứu kế toán cơ
    quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC
    ngày 30/03/2006. Trên nền tảng này các đơn vị HCSN thuộc các Bộ ngành xây
    dựng các mô hình tổ chức công tác kế toán cho riêng mình nhưng về cơ bản vẫn
    chỉ dựa trên đặc thù từng ngành và chế độ kế toán chứ chưa có sự vận dụng
    đồng bộ chuẩn mực kế toán công quốc tế. Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp
    hiện hành của Việt Nam về cơ bản đã theo hướng thực hiện trên cơ sở kế toán
    dồn tích, ngoại trừ kế toán tài sản cố định và nguồn kinh phí. Hiện tại theo lộ
    trình ban hành kèm theo Quyết định số 3915/QĐ - BTC ngày 18 tháng 12 năm
    2007 của Bộ Tài chính thì từ tháng 6/2009 đến tháng 6/2013 Việt Nam sẽ ban
    hành và công bố hết các CMKT áp dụng cho lĩnh vực công. Tuy nhiên vì nhiều
    lý do khác nhau, Bộ Tài chính vẫn chưa triển khai được. Hiện tại Hội đồng
    Chuẩn mực Kế toán công quốc tế đã ban hành 26 chuẩn mực và 1 dự thảo, đã có
    48 quốc gia và 7 tổ chức trên thế giới đã và đang áp dụng Chuẩn mực kế toán
    công quốc tế. Do đó khi nghiên cứu về kế toán HCSN trên cơ sở vận dụng các
    chuẩn mực kế toán quốc tế thì lý luận về kế toán HCSN sẽ thay đổi khá nhiều.
    Một vài công trình nghiên cứu về tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSN
    của các tác giả nghiên cứu trong nước như Luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Minh
    Hường (2004) với tiêu đề “Tổ chức kế toán ở các trường Đại học trực thuộc Bộ
    Giáo dục và Đào tạo”; Luận án tiến sĩ Lê Kim Ngọc (2009) với tiêu đề “Tổ chức
    hạch toán kế toán trong các cơ sở y tế với việc tăng cường quản lý tài chính
    ngành y tế Việt Nam”; Luận án tiến sĩ Phan Thị Thu Mai (2012) với tiêu đề
    “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán nhằm tăng cường quản lý tài chính trong
    các đơn vị hành chính sự nghiệp ngành Lao động thương binh xã hội” và nhiều
    luận án kinh tế khác nghiên cứu về tổ chức hạch toán trong các đơn vị hành
    chính sự nghiệp thuộc các ngành như: Thống kê, bưu chính viễn thông, đo đạc
    và bản đồ . Các luận án này hầu hết tập trung vào việc thống kê lý thuyết về tổ
    chức công tác kế toán (hay tổ chức hạch toán kế toán), nghiên cứu thực trạng tổ
    chức công tác kế toán và đưa ra giải pháp đối với việc tổ chức công tác kế toán.
    Mỗi luận án nghiên cứu về một loại ĐVSN riêng biệt với các đặc thù khác nhau
    trong các lĩnh vực. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong
    nước về tổ chức công tác kế toán ở ĐVSN rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên,
    trong hoạt động khoa học công nghệ, chưa có công trình nào nghiên cứu về lĩnh 10
    vực này. Do đó, các công trình nghiên cứu trước được coi là cơ sở tác giả có thể
    kế thừa, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu tổ chức công tác kế toán trong các
    ĐVSNCL trong lĩnh vực hoạt động khoa học công nghệ.
    Tóm lại, dù có khá nhiều nghiên cứu về tài chính kế toán tại các ĐVSNCL
    Việt Nam với những đóng góp to lớn và có ý nghĩa tham khảo quan trọng cho
    luận án trong quá trình thực hiện, tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này
    chỉ nghiên cứu tổ chức công tác kế toán ở ĐVSNCL ngoài lĩnh vực khoa học công
    nghệ do vậy vẫn còn khoảng trống chưa được đề cập ở một số khía cạnh sau:
    Thứ nhất, lý luận về tổ chức công tác kế toán, mỗi một đề tài có những
    cách tiếp cận, cách đặt vấn đề riêng, nhưng có điểm chung là chỉ tập trung
    nghiên cứu lý luận về một số nội dung của tổ chức công tác kế toán tại các
    ĐVSNCL nói chung. Trong khi đó, những lý luận cơ bản về những nội dung tổ
    chức công tác kế toán (kể cả kế toán tài chính và kế toán quản trị) cũng như việc
    phân tích các nhân tố chi phối đến tổ chức công tác ở các ĐVSNCL cũng vẫn
    chưa có một công trình nào trình bày một cách hệ thống và toàn diện.
    Thứ hai, các công trình nghiên cứu chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực
    trạng từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện về quản lý nguồn tài chính, cơ chế
    quản lý tài chính và tổ chức công tác kế toán ở các ĐVSNCL và dường như
    chưa có một nghiên cứu tổng hợp, phân tích đầy đủ về thực trạng và đưa ra giải
    pháp cụ thể về tổ chức công tác kế toán trên góc độ của kế toán tài chính và góc
    độ của kế toán quản trị tại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ nói chung
    và ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nói riêng.
    Thứ ba, các công trình chưa đưa ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện việc tổ
    chức công tác kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL như nội dung tổ chức công tác
    kế toán tài chính, tổ chức công tác kế toán quản trị (đặc biệt là tổ chức thu thập
    xử lý, cung cấp thông tin tổ chức lập kế hoạch chi phí, phân loại chi phí và xác
    định chi phí, phân tích thông tin chi phí đưa ra quyết định), tổ chức bộ máy làm
    công tác kế toán quản trị, phân tích hoạt động kinh tế ở các đơn vị này theo mô
    hình kết hợp hay mô hình hỗn hợp; nâng cao chất lượng công tác kiểm tra kế
    toán kết hợp trong kiểm tra tài chính để quản lý toàn diện công tác quản lý tài chính
    và công tác kế toán ở các ĐVSNCL.
    6.3. Những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu, giải quyết
    Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự nghiệp và các sự
    ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nói riêng là yêu cầu cấp thiết trong quá 11
    trình chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính. Đặc biệt đối với ngành nghiên cứu
    khoa học và công nghệ thuộc Bộ KH và CN, những phương hướng và giải pháp
    hoàn thiện phải phù hợp với các định hướng phát triển hệ thống quản lý tài chính
    khoa học công nghệ của Việt Nam và yêu cầu đồng thời đạt đươc hai mục tiêu
    lớn là đảm bảo công bằng và đảm bảo tính hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu
    khoa học. Xuất phát từ quá trình tìm hiểu về đề tài nghiên cứu, Luận án sẽ tập
    trung nghiên cứu các vấn đề chính như sau:
    - Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức công tác
    kế toán trong các ĐVSNCL như: Khái niệm, đặc điểm phân loại ĐVSNCL, khái
    niệm, đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc của tổ chức công tác kế toán tại các
    ĐVSNCL cũng như những nội dung của tổ chức công tác kế toán tại các
    ĐVSNCL: Tổ chức bộ máy kế toán, tổ chức kế toán tài chính, tổ chức kế toán
    quản trị, kiểm tra kế toán, ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán. Ngoài ra,
    luận án phân tích các nhân tố chi phối đến tổ chức công tác kế toán tại các
    ĐVSNCL như đặc điểm của ĐVSNCL, công tác quản lý tài chính cơ sở kế toán
    của ĐVSNCL, .;
    - Phân tích thực trạng, đánh giá những kết quả và tồn tại về tổ chức công
    tác kế toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN trong đó Luận án đặc
    biệt đi sâu trình bày thực trạng tổ chức công tác kế toán tài chính, tổ chức công
    tác kế toán quản trị một số ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN;
    - Đề xuất các giải pháp có tính đồng bộ để hoàn thiện tổ chức công tác kế
    toán tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN có tính khả thi như:
    Một là: Hoàn thiện tổ chức kế toán tài chính bằng cách tổ chức hệ thống
    chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán cũng như hoàn
    thiện hệ thống báo cáo tài chính và phân tích báo cáo tài chính tại các
    ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN;
    Hai là: Hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị từ khâu phân loại chi phí, xác
    định chi phí, lập dự toán, xây dựng định mức tiền công, tiền lương và kế toán
    quản trị phục vụ đưa ra các quyết định ngắn hạn dài hạn;
    Ba là: Hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán tiến hành đồng thời với kiểm
    tra tài chính tại các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN nhằm tăng cường
    công tác quản lý tài chính kế toán, ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức
    công tác kế toán; Bốn là: Đề xuất các phương pháp kế toán phù hợp với cơ chế quản lý tài
    chính trong điều kiện tự chủ tài chính. Kiến nghị sửa đổi cơ chế chính sách về
    tài chính kế toán, thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại Bộ KH và CN cũng như
    tự kiểm tra tài chính kế toán nội bộ các ĐVSNKH-CNCL thuộc Bộ KH và CN.
    7. Kết cấu luận án
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án được kết cấu gồm 3
    chương như sau:
    - Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự
    nghiệp công lập.
    - Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán trong các đơn vị sự
    nghiệp khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
    - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các đơn
    vị sự nghiệp khoa học - công nghệ công lập thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
    Ba chương này có mối quan hệ logic để thực hiện theo đúng mục tiêu
    nghiên cứu.
     
Đang tải...