I NÓI ĐẦU 1. Tớnh cấp thiết của đề tài. Sau một thời gian dài vận hành theo cơ chế kinh tế kế hoạch húa tập trung, quan liờu bao cấp, năm 1986 nền kinh tế Việt Nam đó cú bước chuyển đổi quan trọng sang cơ chế thị trường định hướng XHCN theo Nghị quyết Đại hội Đảng VI. Để phự hợp với cỏc quy luật kinh tế của cơ chế thị trường, hàng loạt cơ chế, chớnh sỏch và thể chế kinh tế đó được đổi mới, trong đó phải kể đến sự thay đổi của cỏc chớnh sỏch liờn quan tới đầu tư nói chung và đầu tư sử dụng tiền nhà nước nói riêng. Đặc biệt, trong hệ thống cỏc chớnh sách điều tiết hoạt động đầu tư sử dụng vốn nhà nước thỡ cơ chế về đấu thầu mới được ỏp dụng vào Việt Nam khoảng hơn một thập kỷ nay. Tuy mới được ỏp dụng rộng rói trong thời gian chưa dài nhưng công tác đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng đó mang lại những thành tựu đáng kể trong việc chi tiờu sử dụng cú hiệu quả hơn tiền vốn của Nhà nước cho đầu tư phát triển. Thành tựu rừ rệt nhất là việc thông qua đấu thầu, mỗi năm trung bỡnh cú khoảng 30.000 gúi thầu được thực hiện với số tương ứng đạt khoảng 4 – 5 tỷ USD/năm và tiết kiệm cho Nhà nước vào khoảng 400 triệu USD/năm (8 – 10%/năm). Tuy vậy, đấu thầu là một lĩnh vực tương đối mới đối với Việt Nam, trong quỏ trỡnh thực hiện khụng trỏnh khỏi những lỳng tỳng, thậm chớ sai lầm gõy thất thoỏt tài lực của Nhà nước, quy trỡnh thực hiện vẫn cũn những hạn chế, lạc hậu, vướng mắc và bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu đẩy mạnh việc ỏp dụng hỡnh thức tiờn tiến này vào việc phỏt triển kinh tế. Bờn cạnh đó cũn nhiều biểu hiện tiờu cực, phản ỏnh sai lệch mặt tớch cực và tớnh hiệu quả của đấu thầu. Chớnh những nguyên nhân này đó làm giảm tớnh hiệu quả của cỏc dự án đầu tư phát triển, gõy ra nhiều hậu quả đáng tiếc cả về người và của, đồng thời đánh mất dần sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vỡ vậy, việc nghiờn cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phự hợp trong công tác điều hành cũng như cải tiến quy trỡnh thực hiện trở thành một yờu cầu hết sức bức thiết để hoạt động đấu thầu được ỏp dụng hiệu quả vào đời sống kinh tế đất nước, đồng thời thớch ứng một cỏch linh hoạt trước những biến động của môi trường trong nước cũng như quốc tế. Để gúp phần nghiờn cứu vấn đề phức tạp này và tỡm biện phỏp nhằm gúp phần nõng cao tớnh phự hợp và linh hoạt của quy trỡnh đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới, em đó lựa chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trỡnh đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập" làm đề tài khúa luận tốt nghiệp của mỡnh. Trong đó đề tài tập trung nghiờn cứu, đánh giá một cỏch khoa học về quy trỡnh thực hiện đấu thầu ở Việt Nam và những vấn đề tồn tại trong quỏ trỡnh ỏp dụng.