Luận Văn Hoàn thiện quản lý tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    mục lục


    Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tiền lương và thu nhập trong Doanh nghiệp 3

    I .Tiền lương và bản chất của tiền lương 3

    IINhựng chức năng cơ bản của tiền luơng .7+.

    III. Những nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp 12

    IV. Nội dung cơ bản của quản lý tiền lương trong doanh nghiệp 14

    Chương II : Phân tích thực trạng quản lý quỹ tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu VN 18

    IMôt. số nét khái quát về Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. 18

    II. Kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty 288

    III. Thực trạng về quản lý quỹ tiền lương trong Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam 39

    Chương III : Một số biện pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2003-2005 52

    I. Mục tiêu phát triển của tổng công ty xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2003-2005 52

    II. Một số quan điểm về quản lý tiền lương trong Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. 55

    IIIMôt. số giải pháp hoàn thiện quản lý quỹ tiền lương trong Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam trong giai đoạn 2003-2005: 57











    lời nói đầu

    L


    ê nin đã khẳng định nền sản xuất xã hội chủ nghĩa có mục đích “ Đảm bảo đời sống đầy đủ và sự phát triển tự do, toàn diện cho tất cả mọi thành viên trong xã hội " Muốn đạt được mục đích đó, phải tổ chức quá trình lao động của con người có năng suất lao động cao. Vậy trước tiên phải hiểu con người làm việc vì động cơ gì ? tại sao có lúc họ hăng hái lao động và đạt năng suất cao, nhưng có những lúc họ thờ ơ và thậm chí bỏ việc?

    Con người lao động trước hết là để thoả mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình họ, ngoài ra họ còn mong muốn góp phần thực hiện các mục tiêu về kinh tế, văn hoá xã hội. Trong thực tế, việc đáp ứng các nhu cầu nhằm tái sản xuất mở rộng sức lao động của con người được thực hiện thông qua tiền lương, tiền thưởng và các khuyến khích vật chất tinh thần. Tiền lương là một bộ phận cấu thành của giá thành sản phẩm, là một khoản chi phí, mặt khác, tiền lương là nguồn thu nhập để tái sản xuất mở rộng sức lao động của công nhân. Quản lý con người phải đảm bảo sự cân xứng giữa tiền lương, tiền thưởng với năng suất lao động, chất lượng công việc của từng người. Từ đó đặt ra vấn đề phải có các phương pháp tổ chức tiền lương, tiền thưởng hợp lý, tạo động lực làm việc mạnh mẽ cho người lao động.

    Nhận thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn, nghiên cứu đề tài : "Hoàn thiện quản lý tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam" làm Khoá luận tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh

    Kết cấu khoá luận gồm 3 phần :

    Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp.

    Chương II : Phân tích thực trạng quản lý quỹ tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam

    Chương III : Một số biện pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ tiền lương tại Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam giai đoạn 2003-2005

    Chương I

    những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp


    ưI .Tiền lương và bản chất của tiền lương

    I1 Tiền lưương

    * Theo quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản

    Trong xã hội tư bản sức lao động của con người được coi là hàng hoá, là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là tiền công hay tiền công chính là giá cả của sức lao động. Tuy nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mọi tuu+ liệu sản xuất đều thuộc sở hữu của giai cấp tuu+ sản, người lao động chỉ có sức lao động là thật sự của bản thân mình. Vì nhu cầu tồn tại, họ phải bán sức lao động với giá cả bị chi phối bởi ý chí của chủ tư bản thuê lao động. Do vậy tiền công chưưa hoàn toàn là giá trị của sức lao động theo đúng nghĩa của nó, giá trị sức lao động phải được xác định trên thị trường theo quy luật cung cầu. Dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì : “ Tiền công (dưới TBCN) không phải là giá cả hay giá trị sức lao động mà chỉ là hình thái cải trang của giá trị hay giá cả sức lao đong”^ Đó là một thực tế mà giai cấp tuu+ sản luôn luôn che dấu để thực hiện việc bóc lột của mình đối với người lao động.

    * Theo quan điểm của các nhà kinh tế theo học thuyết Mác- Lenin^

    .“Về thực chất tiền lương dưới CNXH là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân, viên chức phù hợp với số lưượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao đong”^. . Nói chung khái niệm trên về tiền lương hoàn toàn thống nhất với quan hệ sản xuất và cơ chế phân phối của nền kinh tế kế hoạch tập trung XHCN. Theo quan điểm đó, tiền lương dưới CNXH có những đặc điểm sau:

    Tiền lương không phải là giá cả sức lao động vì trong xã hội XHCN sức lao động không phải là hàng hoá, tiền lương là một khái niệm thuộc phạm trù phân phối, tuân thủ những nguyên tắc của quy luật phân phối dưới chủ nghĩa xã hội.

    Tiền lương được phân phối công bằng theo số lưượng, chất lượng lao động của công nhân đã hao phí, được kế hoạch hoá từ trung ưương đến địa phưương, được nhà nước thống nhất quản lý.

    Chuyển sang kinh tế thị trường, sự thay đổi của cơ chế quản lý kinh tế đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót của những nhận thức trên về vai trò của yếu tố sức lao động và bản chất tiền lương, đó là :

    Vì không coi sức lao động là hàng hoá nên tiền lương không phải là tiền trả cho giá trị sức lao động, không phải là ngang giá sức lao động theo quan hệ cung cầu.

    Thị trường sức lao động về danh nghĩa không tồn tại trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù quan hệ thuê mưướn lao động đã manh nha hình thành ở một số địa phưương nhưưng không được nhà nước công nhận. Trong khu vực kinh tế nhà nước, áp dụng chính sách biên chế suốt đời, nhà nước bao cấp tiền lương, việc trả lương trong doanh nghiệp không gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh.

    Tiền lương được coi là một bộ phận của thu nhập quốc dân nên chế độ phân phối tiền lương lại phụ thuộc vào nhà nước. Theo cơ chế phân phối đó, thu nhập quốc dân còn nhiều thì phân phối nhiều, còn ít thì phân phối ít. Người lao động tạo ra thu nhập quốc dân nhưưng lại được phân phối sau cùng. Động lực kinh tế đối với người lao động không còn nên quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kém hiệu quả, ngưược lại, biên chế lao động và quỹ lương ngày một tăng làm ngân sách nhà nước thâm hụt nặng nề.

    Người lao động không coi tiền lương là nguồn thu nhập chính, cái họ quan tâm là những lợi ích thu được ngoài tiền lương. Người lao động dù được coi là chủ nhưưng không gắn bó với cơ sở sản xuất, phổ biến tình trạng “ chân trong chân ngoài “, lãng phí ngày công, giờ công. Nhà nước mất dần đội ngũ lao động có tay nghề cao.

    Nền kinh tế thị trường buộc chúng ta phải có những thay đổi lớn trong nhận thức, phù hợp với cơ chế quản lý mới, đó là.

    Chấp nhận sức lao động là một loại hàng hoá. Tính hàng hoá của sức lao động không chỉ được chấp nhận với người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân mà nó còn được chấp nhận cả với người lao động công chức, viên chức trong khu vực kinh tế nhà nước.

    Tiền lương phải là tiền trả cho sức lao động, tức là giá cả của sức lao động mà người lao động và người sử dụng lao động thoả thuận với nhau theo luật cung cầu và quy luật giá trị trên thị trường .

    Tiền lương là bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động, đồng thời là một trong các yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức lao động mà người sử dụng sức lao động phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của nhà nước.

    Trong điều kiện của một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhuu+ nước ta hiện nay, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần và khu vực kinh tế.

    Trong thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp ( khu vực lao động được nhà nước trả công ) tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp quốc doanh, các cơ quan, tổ chức của nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của nhà nước và được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương do nhà nước quy định.

    Trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động chi phối rất lớn của thị trường và thị trường sức lao động. Tiền lương trong thành phần này dù vẫn chịu sự điều chỉnh của luật pháp và những chính sách của chính phủ nhưưng là những giao dịch trực tiếp giữa chủ và thợ, những “mặc ca”? cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ về phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất và tiêu dùng, quan hệ về trao đoi Dổ vậy các chính sách về tiền lương, thu nhập luôn luôn là các chính sách quan trọng của mọi quốc gia.

    I2 Bản chất của tiền lương

    Tiền lương là một phạm trù kinh tế, nó biểu hiện quan hệ xã hội nói chung giữa những người lao động trong các doanh nghiệp cũng nhuu+ giữa người lao động và các tập thể lao động nói riêng trong việc phân phối một bộ phận chủ yếu của thu nhập quốc dân. Nhuu+ vậy, mức tiền lương phụ thuộc vào khối lưượng thu nhập quốc dân, vào quy mô tiêu dùng cá nhân và sự đóng góp của mỗi người lao động.

    Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân được biểu hiện bằng tiền bảo đảm thoả mãn nhu cầu vật chất, văn hoá trực tiếp mà nhà nước dùng để phân phối một cách hợp lý và có kế hoạch cho người lao động căn cứ vào số lưượng, chất lượng mà người lao động đã cống hiến cho xã hội phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế- xã hội. Nhà nước ta điều chỉnh mức thu nhập của người lao động thông qua mức lương tối thiểu.

    Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lương được tính vào giá thành sản phẩm mà người chủ phải bỏ ra để thuê mưướn lao động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, điều đó có nghĩa là sức lao động được coi là một yếu tố đầu vào.

    Các Mác đã phân tích tính phi lý của khái niệm hàng hoá lao động, ông chứng minh rằng : “Lao động không thể mua bán trao đổi được, lao động không là hàng hoa”' Cái mà người ta mua bán chính là khả năng lao động, là sức lao động của con người, chính sức lao động mới là hàng hoá. Vì vậy, phạm trù thị trường lao động cũng phi lý nhuu+ hàng hoá lao động, cái mà người ta muốn đề cập đến ở đây chính là thị trường hàng hoá sức lao động.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...