Tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính




    Thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) những năm gần đây cho thấy, việc XPVPHC sai thẩm quyền hoặc VPHC không được người có thẩm quyền phát hiện và xử phạt là hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều địa phương và trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Xảy ra tình trạng này có nhiều nguyên nhân, một trong các nguyên nhân là do chế định pháp luật về thẩm quyền XPVPHC trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi,
    bổ sung một số điều năm 2007, 2008 (Pháp lệnh) còn nhiều hạn chế, ([1]). Để góp


    ý cho Dự thảo Luật XLVPHC[2], bài viết đề cập đến thẩm quyền XPVPHC theo quy định của Pháp lệnh ở hai phương diện sau:










    1. Những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính




    Pháp lệnh đã sử dụng phương pháp liệt kê để quy định những người có thẩm quyền XPVPHC từ Điều 28 đến Điều 40d. Theo đó, phần lớn người có thẩm quyền XPVPHC là những người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước, như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, Trưởng Công an cấp xã, Trưởng Công an cấp huyện, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Trưởng Đồn biên phòng, Chi cục trưởng Hải quan, Chi cục trưởng Chi cục thuế, Chánh Thanh tra chuyên ngành cấp sở, Chánh án Toà án nhân dân các cấp Một số người không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước cũng có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ như: Chiến sĩ Công an nhân dân, Chiến sĩ Bộ đội biên phòng, Nhân viên Hải quan, Nhân viên thuế, Thanh tra viên chuyên ngành, Thẩm phán chủ tọa phiên toà Bên cạnh đó, Điều 41 của Pháp lệnh còn quy định những người là cấp trưởng trong một số cơ quan nhà nước có thể uỷ quyền bằng văn bản cho cấp phó thực hiện thẩm quyền XPVPHC. Từ những quy định này, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:

    Thứ nhất, việc Pháp lệnh liệt kê một cách cố định những người có thẩm quyền XPVPHC đã làm giảm tính ổn định của chế định pháp luật về thẩm quyền XPVPHC. Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện chế định này trong những năm qua cho thấy, chế định này đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung phù hợp với những thay đổi về tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước và tình hình gia tăng các VPHC. Gần đây, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh XLVPHC năm 2008 đã bổ sung khá nhiều người có thẩm quyền XPVPHC, như: Chánh án Toà án nhân dân các cấp; Trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện, cấp tỉnh; Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao; Cục trưởng Cục quản lý lao động ngoài nước; Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh; Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh; Chánh Thanh tra chứng khoán; Chủ tịch Ủy ban chứng khoán nhà nước; v.v Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành vẫn không liệt kê đủ người cần có thẩm quyền XPVPHC, ví dụ như: người chỉ huy tàu bay, tàu biển, tàu hoả không có thẩm quyền xử phạt đối với những VPHC được thực hiện trên tàu bay, tàu biển, tàu hoả khi các tàu này đã rời sân bay, bến cảng, ga; Hiệu trưởng trường phổ thông không có thẩm quyền XPVPHC đối với các hành vi: bán rượu, bia, các chất kích thích khác có nồng độ cồn từ 14 độ trở lên tại các trường phổ thông hay hành vi
    uống rượu, bia trong các trường phổ thông([3]); “Cảng vụ viên, Trưởng đại diện


    Cảng vụ, Đội trưởng thanh tra giao thông là người trực tiếp thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm nhưng lại không có thẩm quyền xử phạt”([4]). Ngoài ra, việc thay đổi chức danh, tên cơ quan của người có thẩm quyền XPVPHC cũng là nguyên nhân làm giảm tính ổn định của chế định này.




    Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Luật XLVPHC ngoài việc liệt kê những người có thẩm quyền XPVPHC như hiện nay trong Pháp lệnh, cần phải có quy định: “Những người khác có thẩm quyền XPVPHC theo quy định của Chính phủ” và quy định về vấn đề kế thừa thẩm quyền XPVPHC.

    Thứ hai, việc Pháp lệnh quy định một số người không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước chỉ có thẩm quyền XPVPHC trong khi thi hành công vụ là không cần thiết. Bởi lẽ, các hoạt động XPVPHC đều là hoạt động công vụ. Do đó, khi tiến hành các hoạt động này, những người có thẩm quyền XPVPHC đều phải có những dấu hiệu để cá nhân, tổ chức bị xử phạt nhận biết được họ là người đang thi hành công vụ (như: mang thẻ chức danh, trang phục, phù hiệu v.v theo quy định của pháp luật). Nói cách khác, tính chất công vụ của các hoạt động XPVPHC cần phải được thể hiện thông qua các yêu cầu pháp lý về thủ tục XPVPHC, chứ không phải là điều kiện để hạn chế thẩm quyền XPVPHC của những người không giữ chức danh lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước.


    Thứ ba, Pháp lệnh quy định những người là cấp trưởng trong một số cơ quan nhà nước có thể uỷ quyền bằng văn bản cho cấp phó thực hiện thẩm quyền XPVPHC là không hợp lý, bởi lẽ:


    Một là, những người là cấp trưởng nêu trên đều không có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, họ chỉ có thể uỷ quyền XPVPHC bằng văn bản áp dụng pháp luật cho cấp phó đối với từng vụ VPHC cụ thể. Vì vậy, nếu đã có thời gian để ra văn bản uỷ quyền thì đương nhiên họ cũng có thời gian để ra quyết định XPVPHC (trong thực tế, họ chủ yếu ra quyết định XPVPHC theo đề nghị của cấp dưới, nên họ không mất nhiều thời gian cho công việc này). Như vậy, uỷ quyền XPVPHC có nguy cơ làm kéo dài thời gian ra quyết định XPVPHC.


    Hai là, do chưa được kiện toàn về tổ chức, nên một số cơ quan nhà nước không có cấp trưởng. Vì vậy, những người là cấp phó trong các cơ quan này đều không có thẩm quyền XPVPHC mặc dù họ có thể phải thực hiện những công việc quản lý như cấp trưởng.


    Ba là, bởi phụ thuộc vào ý chí của cấp trưởng trong việc uỷ quyền XPVPHC,


    nên một số người là cấp phó trong cơ quan nhà nước có thể không có thẩm quyền

    XPVPHC hoặc có thẩm quyền xử phạt không tương xứng với nhiệm vụ quản lý mà họ được giao. Điều đó gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý và ra quyết định XPVPHC của những người này.


    Bốn là, do việc uỷ quyền XPVPHC là công việc nội bộ của cơ quan nhà nước, nên cá nhân, tổ chức bị xử phạt hầu như không có cơ hội biết nội dung của văn bản uỷ quyền XPVPHC. Mặt khác, khi ra quyết định XPVPHC, những người là cấp phó thường không ghi tên, số, ký hiệu, thời gian ra văn bản uỷ quyền trong phần căn cứ ban hành quyết định XPVPHC và thường ký thay (K/T) cấp trưởng thay vì cần phải ký thừa uỷ quyền (T.Ư.Q) để ban hành quyết định. Tình trạng này có nguy cơ làm gia tăng số vụ việc khiếu kiện về quyết định XPVPHC.


    Từ những lý do nêu trên, Luật XLVPHC nên quy định những người là cấp phó trong một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt đối với những VPHC thuộc phạm vi quản lý mà họ được phân công thay cho quy định về uỷ quyền XPVPHC như hiện nay.


    2. Xác định thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính




    Hiện nay, các căn cứ để xác định thẩm quyền ra quyết định XPVPHC chủ yếu được quy định tại Điều 42 của Pháp lệnh. Tuy vậy, các căn cứ này còn thiếu cụ thể và chưa hợp lý, như:




    2.1. Căn cứ vào địa điểm thực hiện vi phạm hành chính




    Xét về phương diện lý luận thì những người có thẩm quyền XPVPHC trong cơ quan nhà nước ở địa phương nào chỉ được xử phạt đối với những VPHC được thực hiện ở địa phương đó. Tuy vậy, Pháp lệnh lại không quy định cụ thể về vấn đề này.

    Mặt khác, Pháp lệnh cũng không quy định trường hợp một VPHC được thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau hay được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì ai là người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...