Luận Văn Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các ngân hàng thương mai

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1.1. Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
    1.1.1. Một số các vấn đề liên quan.
    1.1.1.1. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
    Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài chính quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Hoạt động của các ngân hàng thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ thống các ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc gia đó.
    Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên hoàn toàn khác với các loại hình doanh nghiệp thông thường khác, các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật chuyên ngành với những nguyên tắc điều chỉnh hết sức khắc khe. Vậy nguyên nhân nào tạo nên yêu cầu khác biệt đó? Có thể lí giải từ nhiều góc độ: vị trí, vai trò của các ngân hàng thương mại, yêu cầu an toàn cho nền kinh tế, tính chất rủi ro trong bản chất hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, các đặc tính trên đều xuất phát từ một yếu tố duy nhất, đó là đối tượng kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này: tiền tệ.
    Theo khoản 1 điều 9 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam “Tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá như tiền”. Xuất phát từ bản chất của tiền tệ là loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lí của nó mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó. Tiền tệ, hiều theo nghĩa hẹp là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế, chính vì vậy, tiền tệ còn được gọi là “tiền lưu thông”. Từ góc độ này, tiền tệ có thể mang hình
    thức là tiền giấy hoặc tiền kim loại do nhà nước (Ngân hàng trung ương, bộ tài chính, ) phát hành. Tuy nhiên, theo định nghĩa của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam như được nêu trên và cả nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính đều sử dụng thuật ngữ tiền tệ theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Tiền tệ lúc này bao gồm tiền (tiền tệ theo nghĩa hẹp) và những loại hình có thể thay thế tiền mặt, chúng còn có tên gọi khác là “near-money” _ công cụ được coi như tiền là các chứng khoán , bản thân chúng không được gọi là tiền nhưng có thể chuyển thành tiền một cách dễ dàng. Để tiền mặt thật sử trở thành tiền tệ, hay nói cách khác muốn nó trở thành một loại hàng hóa có khả năng sinh lợi, các ngân hàng chính là những đầu mối quan trọng để thực hiện chu trình chuyển đổi này. Về cơ bản có thể, có thể diễn đạt cách ngắn gọn như sau, để biến tiềm mặt thành tiền tệ, người ta phải đem tiền mặt đi đổi dưới các hình thức như mua, kí gởi, cho vay , và như vậy, nó tạo ra lãi suất (giá của hàng hóa tiền tệ) mà tiền mặt không làm được. Và có thể nói đây là phương thức hình thành nguồn vốn quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, đó chính là bản chất kinh tế cơ bản của hoạt động ngân hàng nói riêng và toàn thị trường tài chính nói chung. Nó chính là khởi phát của hoạt động huy động vốn hiểu dưới góc độ kinh tế sơ khai trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
    .
    Bố cục

    CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

    CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – MỘT SỐ NHỮNG KIẾN NGHỊ
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...