Luận Văn Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ bán hàng

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hoàn thiện kế toán nghiệp vụ bán hàng
    Lời mở đầu
    Để tồn tại và phát triển, con người cần phải tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hơn nữa khi làm việc con người luôn mong muốn đạt hiệu quả cao, nghĩa là với chi phí tối thiểu phải đem lại lợi nhuận tối đa. Hạch toán kế toán ra đời là một tất yếu khách quan.
    Hạch toán kế toán là một bộ phận quan trọng trong hệ thống công cụ quản lý tài chính, nó có vai trò tích cực trong việc điều hành, quản lý và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Trước yêu cầu đổi mới của cơ chế quản lý, nhà nước phải hoàn thiện công tác quản lý kinh tế trong đó có công tác hạch toán kế toán. Hệ thống kế toán Việt Nam ra đời và chính thức được áp dụng từ ngày 01/01/1996 cùng với luật thuế GTGT ngày 01/01/1999 cho tất cả các doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc thay cho hệ thống kế toán cũ.
    Với mục đích lợi nhuận, bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào đều muốn tiêu thụ được càng nhiều sản phẩm hàng hoá càng tốt, bởi khi đó doanh nghiệp thu hồi được vốn bù đắp được chi phí, có nguồn tích luỹ để sản xuất kinh doanh và có chỗ đứng trên thị trường.
    Trong các doanh nghiệp thương mại, với hoạt động kinh doanh hàng hoá dịch vụ là chủ yếu thì việc tổ chức hợp lý quá trình hạch toán kế toán có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là dịch vụ tiêu thụ hàng hoá. Để làm tốt điều đó, doanh nghiệp thương mại cần phải tổ chức công tác kế toán bán hàng phù hợp có hiệu quả từ khâu nền tảng ban đầu (Thị trường tiêu thụ) đồng thời doanh nghiệp thường xuyên cập nhật những quyết định mới ban hành của bộ tài chính nhằm hoàn thiện kế toán bán hàng, giúp kế toán cung cấp được những thông tin chính xác đầy đủ cho các nhà quản lý nhằm đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời.
    Chính vì bán hàng có tầm quan trọng như vậy nên em đã chọn đề tài: Hoàn thiện nghiệp vụ kế toán bán hàng tại công ty TNHH Phú Thánh. Nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
    Chương 1: Những lý luận chung về kế toán bán hàng trong doanh nghiệp thương mại.
    Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán bán hàng tại công ty TNHH Phú Thành.
    Chương 3: Một số đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán bán hàng tại công ty TNHH Phú Thành.
    CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
    I. Một số vấn đề chung về bán hàng:
    I.1. Khái niệm, đặc điểm và chức năng của hoạt động thương mại:
    I.1.1. Khái niệm về hoạt động thương mại:
    Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều gắn chặt với thị trường, hoạt động thương mại cũng không ngoại lệ.
    Thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng.
    Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với các bên có liên quan bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội.
    Hoạt động thương mại khác hoạt động sản xuất ở chỗ : hoạt động thương mại chỉ gồm 2 quá trình mua và bán hàng hoá.
    I.1.2. Đặc điểm của hoạt động thương mại: Có một số đặc điểm chủ yếu sau:
    - Đặc điểm về hoạt động: Hoạt động kinh tế cơ bản của kinh doanh thương mại là lưu chuyển hàng hoá. Lưu chuyển hàng hoá là sự tổng hợp các hoạt động thuộc các quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá.
    - Đặc điểm về hàng hoá: Hàng hoá trong kinh doanh thương mại gồm các loại vật tư, sản phẩm có hình thái vật chất hay không có hình thái mà doanh nghiệp mua về với mục đích để bán.
    - Đặc điểm về phương thức lưu chuyển hàng hoá: Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có thể bán hàng theo nhiều phương thức khác nhau như bán buôn, bán lẻ, ký gửi đại lý .
    - Đặc điểm về tổ chức kinh doanh : Tổ chức kinh doanh thương mại có thể theo nhiều mô hình khác nhau như: tổ chức bán buôn, bán lẻ, công ty kinh doanh tổng hợp .
    - Đặc điểm về sự vận động của hàng hoá: Sự vận động của hàng hoá trong kinh doanh thương mại cũng không giống nhau, tuỳ thuộc vào nguồn hàng ngành hàng.
    I.1.3. Chức năng của hoạt động thương mại: Là tổ chức và thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá , cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
    I.2. Khái niệm về bán hàng và đặc điểm nghiệp vụ bán hàng
    trong doanh nghiệp thương mại:
    I.2.1. Khái niệm về bán hàng: Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá , thành phẩm , dịch vụ cho khách hàng, doanh nghiệp thu được tiền hay được quyền thu tiền. Đó cũng chính là quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn thành phẩm sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả.
    I.2.2. Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong doanh nghiệp thương mại:
    - Về đối tượng phục vụ: Đối tượng phục vụ của các doanh nghiệp thương mại là người tiêu dùng bao gồm các cá nhân, các đơn vị sản xuất, kinh doanh khác và các cơ quan, tổ chức xã hội.
    - Về phương thức và hình thức bán hàng : Có nhiều hình thức bán hàng khác nhau như bán buôn, bán lẻ, đại lý ký gửi . trong mỗi phương thức lại có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: trực tiếp, chuyển hàng, chờ chấp nhận .
    - Về phạm vi hàng hoá đã bán: Hàng hoá được coi là hoàn thành việc bán trong doanh nghiệp thương mại được ghi nhận doanh thu bán hàng phải đảm bảo các điều kiện nhất định. Theo quy định hiện hành, được coi là hàng bán phải thoả mãn các điều kiện sau :
    Hàng hoá phải thông qua quá trình mua và bán , thanh toán theo một phương thức thanh toán nhất định.
    Hàng hoá phải được chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp thương mại sang bên mua và doanh nghiệp thương mại đã thu được tiền hay một loại hàng hoá khác hoặc được người mua chấp nhận nợ.
    Hàng hoá bán ra phải thuộc diện kinh doanh của doanh nghiệp, do doanh nghiệp mua vào hoặc gia công, chế biến hay nhận vốn góp, nhận cấp phát tặng thưởng .
    Ngoài ra trong một số trường hợp sau cũng coi là hàng bán:
    Hàng hoá xuất đổi lấy hàng hoá khác, còn được gọi là đối lưu hay hàng đổi hàng.
    Hàng hoá xuất để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho công nhân viên, thanh toán thu nhập cho các thành viên của doanh nghiệp .
    Hàng hoá xuất làm quà biếu , tặng, quảng cáo, chào hàng .
    Hàng hoá xuất dùng trong nội bộ, phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
    - Giá bán hàng hoá của doanh nghiệp thương mại: Là giá thoả thuận giữa người mua và người bán được ghi trên hoá đơn, hợp đồng.
    - Thời điểm ghi nhận doanh thu: Là thời điểm hàng hoá được xác định là tiêu thụ. Thời điểm đó đựơc quy định khác nhau phương thức bán hàng khác nhau. Thời điểm đó được quy định cụ thể như sau:
    Bán buôn qua kho, bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp: Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận nợ.
    Bán buôn qua kho, bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng: Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm thu được tiền của bên mua hoặc bên mua xác nhận đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.
    Bán lẻ hàng hoá: Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm nhận được báo cáo bán hàng của nhân viên bán hàng.
    Bán hàng đại lý, ký gửi: Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm cơ sở đại lý ký gưỉ thanh toán tiền hàng hay chấp nhận thanh toán hoặc thông báo hàng đã bán được.
    I.2.3. Yêu cầu quản lý đối với nghiệp vụ bán hàng:
    - Quản lý về số lượng, chất lượng, trị giá hàng bán ra: Nhà quản lý cần phải nắm được doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng nào, sản phẩm nào có hiệu quả. Phải xác định được xu hướng của các mặt hàng để có thể kịp thời mở rộng phạm vi kinh doanh hay chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác. Giúp cho các nhà quản lý có thể thiết lập các kế hoạch cụ thể, xác thực và đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời trong kinh doanh.
    - Quản lý về giá cả: Bao gồm việc lập và theo dõi việc thực hiện những chính sách giá. Đây là một công việc quan trọng trong quá trình bán hàng, đòi hỏi các nhà lãnh đạo phải xây dựng một chính sách giá phù hợp với từng mặt hàng, nhóm hàng từng phương thức bán và từng địa điểm kinh doanh. Đồng thời đôn đốc kiểm tra việc thực hiện của các cửa hàng, đơn vị tránh được những biểu hiện tiêu cực về giá như tự ý nâng hay giảm giá bán. Quản lý về giá cả giúp các nhà quản lý theo dõi, lắm bắt được sự biến động của giá cả từ đó có chính sách giá linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn.
     
Đang tải...