Luận Văn Hoàn thiện kế toán CPSX & tính giá thành sản phẩm tại công ty Quản lý & sửa chữa đường bộ 242- khu q

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hoàn thiện kế toán CPSX & tính GTSP tại Cty Quản lý & sửa chữa đường bộ 242- khu quản lý đương bộ 2
    Lời nói đầu

    Xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn của nền kinh tế quốc dân đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng tạo nên cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật và tài sản cố định. Ngành giao thông chi phí một nguồn vốn khá lớn của quốc gia và xã hội. Những sai lầm trong ngành xây dựng thường gây nên những thiệt hại lớn và có thể rất khó sửa chữa trong nhiều năm.
    Sản phẩm của ngành xây dựng có tính chất kinh tế, văn hoá, nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Do đó, các công trình xây dựng có tác dụng quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, góp phần đẩy nhanh văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, có tác dụng quan trọng tới môi trường sinh thái.
    Cùng với đà phát triển nhanh của nền kinh tế, khối lượng đầu tư vào xây dựng hàng năm của nước ta hiện nay tăng rất nhanh. Điều này cũng có nghĩa là số vốn xây dựng cơ bản cũng gia tăng. Vấn đề đặt ra là làm sao quản lý vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát vốn trong điều kiện sản xuất kinh doanh xây lắp trải qua nhiều giai đoạn, thời gian kéo dài.
    Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vốn dĩ đã là một phần cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với công ty xây lắp. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là cơ sở để giám đốc các hoạt động để từ đó khắc phục những tồn tại, phát huy những tiềm năng mới bảo đảm cho công ty tồn tại và phát triển trong cơ chế hạch toán kinh doanh của nền kinh tế thị trường, đồng thời là cơ sở để nhà nước kiểm soát vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
    Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian thực tập tại Công ty quản lý và sửa chưũa đường bộ 242, được sự giúp đỡ của thầy giáo Trần Văn Thuận và các cô, các chị phòng kế toán Công ty, em đã đi sâu vào nghiên cứu công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Em đã chọn đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Quản lý và Sửa chữa đường bộ 242 – Khu quản lý đường bộ II ” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện công tác hạch toán kế toán và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.

    Bài viết của em được chia làm ba phần chính:
    Phần I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp xây lắp .
    Phần II: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Quản lý và Sửa chữa đường bộ 242.
    Phần III: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty Quản lý và Sửa chữa đường bộ 242.



















    Phần I

    Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp

    1.1-Đặc điểm hoạt động kinh doanh xây lắp ảnh hưởng tới kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
    Trong các nhóm ngành trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất độc lập, có chức năng sáng tạo và trang bị tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở vật chất cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế, quốc phòng. Vì vậy, một bộ phận của thu nhập quốc dân nói chung, quỹ tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu tư và tài trợ từ nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. So với các ngành sản xuất vật chất khác, xây dựng cơ bản có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc trưng, được thể hiện rất rõ ở sản phẩm và quá trình tái tạo sản phẩm của ngành.
    Sản phẩm của ngành xây lắp có những đặc điểm sau:
    - Sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc . có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian thi công lâu dài và phân tán . Mặt khác có rất nhiều phương thức kỹ thuật thi công khác nhau dẫn đến giá trị công trình khác nhau.Vì vậy, đòi hỏi việc quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải được lập dự toán, quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo.
    - Sản phẩm xây lắp hoàn thành không thể nhập kho mà được tiêu thụ ngay theo giá dự toán hoặc giá thầu đã được thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do vây tính chất hàng hoá của sản phẩm không thể hiện rõ.
    - Thời gian sử dụng sản phẩm lâu dài, đòi hỏi chất lượng công trình phải bảo đảm. Đặc điểm này đòi hỏi công tác kế hoạch phải được tổ chức tốt sao cho chất lượng sản phẩm như dự toán, thiết kế tạo điều kiện cho việc bàn giao công trình, ghi nhận doanh thu và thu hồi vốn.
    - Sản phẩm xây lắp được cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện phục vụ cho sản xuất như xe máy, thiết bị thi công, người lao động lại phải di chuyển theo địa điểm xây dựng công trình. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý hạch toán tài sản rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết nên dễ mất mát hư hỏng. Do vậy công tác kế toán phải tổ chức tốt quá trình hạch toán ban đầu. Ngoài ra phải thường xuyên tiến hành kiểm kê vật tư, phát hiện sai hỏng một cách kịp thời.
    Từ những đặc điểm riêng có của sản phẩm xây lắp việc tổ chức sản xuất tại các doanh nghiệp xây lắp cũng có nét riêng:
    * Hoạt động xây lắp được diễn ra với tính chất của công việc không ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm công trình và điều kiện thi công. Do vậy phải luôn thay đổi lựa chọn phuơng án thi công thích hợp để bảo đảm chất lượng và tiến độ.
    * Chu kỳ sản xuất xây lắp kéo dài, làm cho nguồn vốn đầu tư ứ đọng, do vậy các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư này dễ gặp phải rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như: hao mòn vô hình, điều kiện tự nhiên.
    * Quá trình sản xuất diễn ra trên một phạm vi hẹp với số lượng công nhân và vật liệu lớn, đòi hỏi công tác tổ chức xây lắp phải được sắp xếp hợp lý, có sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các bộ phận và các giai đoạn công việc.
    * Sản xuất xây lắp diễn ra ngoài trời nên chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên. Đặc điểm này đòi hỏi kế hoạch thi công phải được vạch ra theo một tiến độ thích hợp để tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
    Từ những đặc điểm trên trong các đơn vị kinh doanh xây lắp, công tác kế toán bắt buộc phải đảm bảo yêu cầu phản ánh chung của một đơn vị sản xuất là ghi chép, tính toán đầy đủ các chi phí giá thành sản phẩm, thực hiện phù hợp với ngành nghề, đúng chức năng, cung cấp thông tin và các số liệu chính xác phục vụ quản lý doanh nghiệp .
    1.2- Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp
    1.2.1. Chi phí xây lắp :
    1.2.1.1. Khái niệm chi phí xây lắp
    Với bất kỳ phương thức sản xuất nào, quá trình sản xuất cũng cần hội tụ đủ ba yếu tố : Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Ngành xây lắp có đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác nhưng để tạo ra sản phẩm cũng cần phải có tư liệu lao động (gồm các loại máy móc thiết bị, các tài sản cố định .), đối tượng lao động (các nguyên liệu, vật liệu, thiết bị đưa đi lắp đặt .) và sức lao động của con người. Sự kết hợp của ba yếu tố này trong quá trình sản xuất hình thành nên ba loại chi phí về sử dụng tư liệu lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về lao động sống. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá các chi phí này được biểu hiện dưới dạng giá trị gọi là chi phí sản xuất.
    Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Như vậy chỉ được tính vào chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan về khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ.
    Cần thấy rõ sự khác nhau giữa chi phí và chi tiêu. Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kỳ nó được sử dụng vào mục đích gì. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí, nhưng có những khoản chi tiêu kỳ này chưa được tính vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thức tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước).
    Từ việc xem xét chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp nói chung ta có thể rút ra : chi phí sản xuất của đơn vị xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp (công trình nhà ở, công trình giao thông, nhà máy công nghiệp .).
    Đối với các nhà quản lý, thông tin về chi phí hết sức quan trọng vì nó phản ánh trong kỳ doanh nghiệp đã tiết kiệm hay làm tăng chi phí và nguyên nhân do đâu. Vì vậy để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần thiết phải phân loại chi phí.
    1.2.1.2. Phân loại chi phí xây lắp
    Phân loại chi phí là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Trong thực tế có rất nhiều cách phân loại chi phí, mỗi cách đều đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh ở các góc độ . Vì thế các cách phân loại đều tồn tại bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
    ở doanh nghiệp xây lắp có một số cách phân loại sau:
    a-Phân loại theo yếu tố chi phí:
    Thực chất của cách phân loại này là chỉ chi tiết hoá ba yếu tố chi phí đó là chi phí về sức lao động, chi phí về đối tượng lao động và chi phí về tư liệu lao động nhằm cung cấp thông tin về chi phí một cách cụ thể hơn phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động, lập và liểm tra dự toán chi phí sản xuất. Theo quy định hiện hành chi phí được chia thành:
    - Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
    - Chi phí nhân công : Bao gồm toàn bộ số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức và các khoản trích trên tiền lương theo tỉ lệ quy định của toàn bộ công nhân viên trong toàn doanh nghiệp. Loại chi phí này còn có thể được chia thành 2 yếu tố là chi phí tiền lương và chi phí BHXH, BHYT và KPCĐ.
    - Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả các TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh.
    - Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp ( như dịch vụ được cung cấp về điện, nước, sử chữa TSCĐ ) dùng vào sản xuất kinh doanh.
    - Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
    Phân loại theo cách này cho ta biết tỷ trọng và kết cấu của từng loại chi phí sản xuất mà doanh nghiệp đã chi ra trong kỳ.
    b - Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm xây lắp
    Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm kỳ sau. Giá thành của sản phẩm xây lắp được hình thành từ các khoản mục chi phí sau:
    * Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: là chi phí của các vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp (không kể vật liệu phụ cho máy móc, phương tiện và vật liệu tính trong chi phí sản xuất chung).
     
Đang tải...