Luận Văn Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1


    GIỚI THIỆU

    1.1. Đặt vấn đề nghiên cứu

    1.1.1. Sự cần thiết nghiên cứu.
    Trong xu thế hội nhập hiện nay, nền kinh tế thế giới đang vận động không ngừng. Để cho một nền kinh tế phát triển thì một yếu tố rất quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế của một nước đó là vấn đề cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông thuận lợi và giao thông đường thuỷ thì cảng biển là một bộ phân không thể thiếu trong hệ thống giao thông đường thuỷ trong thương mại quốc tế, 80% hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển. Chẳng hạn như hơn 30 năm trở về trước, nhờ hình thành cảng trung chuyển quốc tế đã đưa Singapore trở thành trung tâm thương mại, tài chính quốc tế, . kế hoạch đó đã là cho Singapore phát triển như bây giờ. Việt Nam cũng vậy trong việc phát triển kinh tế thì cảng là một bộ phận để giao thông, mà giao thông có thuận lợi thì đất nước mới có cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội, mới giao lưu thông thương với các nước trên thế giới.
    Cảng không những phục vụ cho nhu cầu đi lại cho con người mà còn là nơi trao đổi hàng hoá cho nhu cầu nội địa và cho nhu cầu xuất nhập khẩu góp phần không nhỏ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việt Nam có tiềm năng về biển, có nguồn hàng hoá dồi dào trong đó có đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của cả nước đóng góp 60% sản lượng gạo , 90% kim ngạch xuất khẩu gạo, 65% kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản của cả nước (nguồn: báo điện tử kinh tế nông thôn). Lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của đồng bằng sông Cửu Long ngày càng tăng nhanh nên nhu cầu vận chuyển hàng hoa ngày càng tăng cao, vị trí của các cảng biển trong hệ thống giao thông ngày càng quan trọng.

    Mặt khác, với địa hình của đồng bằng sông Cửu Long thì các tuyến giao thông đường sông trở thành “mạch máu” quan trọng giúp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thông thương, giao lưu hàng hóa đến với các vùng miền trong cả nước và trên thế giới góp phần thúc đẩy kinh tế vùng phát triển.
    Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế WTO thì việc thu hút nhà đầu tư vào để phát triển nền kinh tế của đất nước, nhưng điều mà nhà đầu tư nào khi đầu tư đều phải chú trọng đó là cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật, hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển có đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hoá hay không khi đầu tư vào Việt Nam.
    Bên cạnh đó hệ thống cảng biển cũng góp phần làm ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế do chi phí vận chuyển có hợp lý hay không.
    Đồng bằng sông Cửu Long có sông ngòi chằng chịt, hệ thống cảng biển cũng góp phần vào việc phát huy thế mạnh và tiềm năng vốn có của vùng của vùng không lãng phí điều kiện tự nhiên vốn có nếu khai thác đúng và hợp lý.

    Hệ thống giao thông cơ sở hạ tầng phát triển thì các doanh nghiệp có càng nhiều cơ hội hơn để vươn mình ra thế giới cạnh tranh với các nước trên thế giới, các doanh nghiệp ngày càng có cơ hội phát triển, ăn nên làm ra góp phần thúc đẩy nền kinh tế vùng phát triển, từ đó nền kinh tế của đất nước cũng phát triển theo.

    Vì vậy hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng nói chung trong đó cảng là một phần không thể thiếu trong hệ thống giao thông và là một phần không thể thiếu trong một nền kinh tế phát triển để phát huy thế mạnh của mình so với các nước khác. Cảng hoạt động vừa mang tính chất phục vụ vừa là một đơn vị kinh tế, cùng với các doanh nghiệp khác trong cả nước góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong cả nước. Hệ thống cảng biển phát triển mạnh không những chính cảng biển đó đống góp vào sự phát triển của nền kinh tế mà còn tạo cơ hội và điều kiện cho các hoạt động khác, các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế khác phát triển và thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
    1.1.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn.

    Hoạt động vận tải mang tính chất phục vụ, vì vậy sản phẩm của vận tải đó chính là hoạt động ấy. Cũng do đặc tính phục vụ nên sản phẩm của vận tải cũng mang tính chất khác biệt.
    Hoạt động vận tải có ích lợi là do đối tượng vận chuyển (hành khách hoặc hàng hóa) được di chuyển tới nơi cần thiết. Như vậy tính sử dụng của hoạt động đưa đến việc làm thỏa mãn nhu cầu cần có. Điều lợi đem lại do đối tượng đó có tại nơi yêu cầu lại nằm ngoài phạm vi của sản xuất vận tải. Như vậy giá trị sử dụng của hoạt động vận tải thống nhất với mục đích sản xuất, phải dựa trên chính bản thân sự di chuyển.

    Tóm lại, giá trị sử dụng của hoạt động vận tải phát sinh và được tiêu thụ ngay trong quá trình vận tải.
    Sau hoạt động vận tải, giá trị sử dụng của vận tải không còn, nhưng giá trị của hoạt động vận tải vẫn còn tồn tại trong giá trị của đối tượng vận chuyển. Cũng giống như các sản phẩm khác giá trị của hoạt động vận tải được xác định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để làm ra quá trình hoạt động vận tải đó. Khi hàng hóa được vận chuyển đến nơi yêu cầu thì giá trị của nó tăng thêm một lượng đúng bằng giá trị của hoạt động vận tải tạo ra. Biểu hiện về mặt giá trị thành sản phẩm thì giá thành này có bao gồm chi phí cho vận tải.

    Mác đã chỉ ra rằng trong sản xuất, hàng hóa nhận giá trị mới, giá trị này tồn tại độc lập và nhờ có phần đóng góp của lao động sống vào nên nó cao hơn giá trị của nguyên, vật liệu, thiết bị dùng để làm ra hàng hóa đó. Mác đã diễn đạt điều đó bằng biểu thức mô tả các giai đoạn kế tiếp liên tục biến tiền ở dưới dạng tư bản công nghiệp qua quá trình sản xuất ra giá trị mới cao hơn của hàng hóa để rồi cuối cùng lại trở lại dạng tiền với số lượng nhiều hơn.
    Nếu ta coi sự phục vụ vận tải là có thể bán được thì là bán chính bản thân hoạt động phục vụ ấy chứ không thể coi đấy là hàng hóa tách rời ra khỏi quá trình sản xuất. Do đó quá trình sản xuất ra giá trị mới trong vận tải sẽ không có khâu hàng hóa mới được sản xuất ra và nó sẽ có dạng:
    SLĐ
    T - H SX - T`
    TLSX
    Tóm lại hoạt động vận tải là một dạng sản xuất đặc biệt, sản phẩm của nó chính là bản thân của hoạt động ấy. Sản phẩm của vận tải được sinh ra và tiêu thụ ngay trong quá trình của hoạt động vận tải.
    Khối lượng của sản xuất vận tải được đo bằng các đại lượng bằng khối lượng vận chuyển nhân với quảng đường vận chuyển của hoạt động vận tải.

    1.2 Mục tiêu nghiên cứu
    1.2.1. Mục tiêu chung
    Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
    1.2.2. Mục tiêu cụ thể
    - Đánh giá tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ qua các năm theo nhiều hướng khác nhau: theo chiều hàng, theo loại hàng, theo mặt hàng, theo thời gian và theo phương án xếp dỡ.
    - Đánh giá mức độ thực hiện sản lượng so với kế hoạch đã đề ra và khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của Cảng Cần Thơ.
    - Tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến việc thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ và biện pháp khắc phục những khó khăn, phát huy và tận dụng những thuận lợi. Xác định ưu khuyết điểm, những thuận lợi, khó khăn và điểm mạnh, điểm yếu của Cảng Cần Thơ trong việc thực hiện sản lượng.
    1.3. Phạm vi nghiên cứu
    1.3.1. Không gian: Cảng Cần Thơ
    1.3.2. Thời gian:
    - Lấy số liệu từ năm 2005, 2006, 2007
    - Trực tiếp thâm nhập thực tế tại Cảng Cần Thơ từ ngày 25/02/2008 đến ngày 25/4/2008
    1.3.3. Đối tượng nghiên cứu
    Tình hình thực hiện sản lượng của Cảng Cần Thơ năm 2007
    1.3.4. Lược khảo tài liệu có liên quan đến đề tài nghiện cứu
    Luận văn tốt nghiệp: Phân tích tình hình thực hiện sản lượng của cảng Cần Thơ năm 2006 ( Phạm Hoàng Trãi- Trường Đại học Giao thông vận tải Thành Phố Hồ Chí Minh)
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...