Luận Văn Hoàn thiện công tác kế toán CPSX & tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty xây dựng sông Đà 8

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hoàn thiện công tác kế toán CPSX & tính GTSP xây lắp tại C.ty xây dựng sông Đà 8
    CHƯƠNG I:
    THẨM ĐỊNH DỰ ÁN VÀ PHÂN TÍCH RỦI RO TRONG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ


    I. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư .
    1. Dự án đầu tư trong hoạt động đầu tư .
    Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Để tiến hành đầu tư , các chủ đầu tư cần phải tiến hành thu thập các thông tin, tài liệu có liên quan đến công cuộc đầu tư của họ. Quá trình phân tích, xử lý các thông tin và đưa ra các giải pháp cho ý tưởng đầu tư được gọi là quá trình lập Dự án đầu tư (DAĐT).
    ã Như vậy về bản chất, DAĐT là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để xây dựng mới , mở rộng hoặc hiện đại hoá các tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng của sản phẩm trong một khoảng thời gian xác định.
    ã Về hình thức thể hiện, DAĐT là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập, trong đó nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công trình đầu tư , nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư .
    Trong hoạt động đầu tư , DAĐT có vai trò rất quan trọng. Về mặt thời gian, nó tác động trong suốt quá trình đầu tư và khai thác công trình sau này. Về mặt phạm vi, nó tác động đến tất cả các mối quan hệ và các đối tác tham gia vào quá trình đầu tư . Như vậy, trong hoạt động đầu tư vai trò của DAĐT thể hiện một cách cụ thể như sau:
    ã Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư ;
    ã Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư , theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư ;
    ã Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính , tín dụng xem xét tài trợ dự án;
    ã Dự án là cơ sở để các cơ quan quản lý nhà nước xem xét, phê duyệt cấp giấy phép đầu tư ;
    ã Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh kịp thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình;
    ã Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư .
    Tuỳ theo từng công trình đầu tư cụ thể (ngành nghề, lĩnh vực, quy mô .) mà các dự án có thể có sự khác biệt nhất định về nội dung. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đầu tư và để các tổ chức tài chính dễ dàng xem xét tài trợ vốn thì một DAĐT cần phải được soạn thảo theo một tiêu chuẩn nhất định, đảm bảo được sự thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế và mang tính thông lệ quốc tế .
    Cụ thể một DAĐT cần thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
    Một là : Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án. Cần nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình thành và thực hiện toàn bộ dự án.
    Hai là : Luận chứng về thị trường của dự án. Cần đề cập tới các vấn đề:
    ã Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất, kinh doanh theo dự án;
    ã Các luận cứ về thị trường đối với sản phẩm được lựa chọn;
    ã Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm, dịch vụ đó;
    ã Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó;
    ã Xem xét, xây dựng màng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của dự án;
    Ba là : Luận chứng về phương diện kỹ thuật- công nghệ của dự án theo các nội dung chủ yếu sau:
    ã Xác định địa điểm xây dựng dự án;
    ã Xác định quy mô, chương trình sản xuất;
    ã Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và phương thức cung cấp;
    ã Lựa chọn công nghệ và thiết bị.
    Bốn là : Luận chứng về tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho việc tính toán nhu cầu nhân lực .
    Năm là : Luận chứng về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết các nội dung chủ yếu sau:
    ã Xác định tổng vốn đầu tư , cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ;
    ã Đánh giá khả năng sinh lời của dự án;
    ã Xác định thời gian hoàn vốn của dự án;
    ã Đánh giá mức độ rủi ro của dự án.
    Sáu là : Xem xét về các lợi ích kinh tế- xã hội của dự án. Cần đánh giá, so sánh giữa lợi ích do dự án tạo ra cho xã hội, cho nền kinh tế và các chi phí mà xã hội phải trả trong việc sử dụng các nguồn lực cho đầu tư dự án .chủ yếu xem xét trên các mặt sau:
    ã Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách;
    ã Tạo công ăn việc làm;
    ã Nâng cao mức sống của nhân dân;
    ã Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.
    ã Phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho các ngành , các dự án khác phát triển theo.
    Bảy là : Kết luận và kiến nghị. Thông qua những nội dung nghiên cứu trên, cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó khăn và thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề xuất những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan đến dự án đẻ cùng phối kết hợp trong quá trình triển khai xây dựng ĐAĐT.
    2.Thẩm định và ý nghĩa của công tác thẩm định Dự án đầu tư
    Các dự án đầu tư khi được soạn xong dù được nghiên cứu tính toán rất kỹ càng thì chỉ mới qua bước khởi đầu. Để đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả tính khả thi của dự án và ra quyết định dự án có được thực hiện hay không phải có một quá trình xem xét kiểm tra, đánh giá một cách độc lập và tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Quá trình đó gọi là thẩm định dự án.
    Vậy thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng tới công cuộc đầu tư để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư .
    Xét trên phương diện vĩ mô, để đảm bảo được tính thống nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra một năng lực tăng trưởng mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng có thì cần thiết phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực Đầu tư cơ bản. Thẩm định DAĐT chính là một công cụ hay nói cách khác đó là một phương thức hữu hiệu giúp Nhà nưóc có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình. Công tác thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt Nhà nước để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường .Cũng như UBND các Tỉnh - Thành phố, các Bộ quản lý ngành khác .Qua việc phân tích các DAĐT một cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc các Cơ quan chức năng này sẽ có được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho Nhà nước trong việc hoạch định chủ trương đầu tư , định hướng đầu tư và ra quyết định đầu tư đối với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho các Cơ quan thẩm định dự án, các DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể .Trên cơ sở sự phân loại này, sẽ có sự phân cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt các DAĐT đảm bảo được tính chính xác và nhanh chóng trong phê duyệt dự án. Hiện nay, công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư trên lãnh thổ Việt nam được thực hiện theo “ Quy chế quản lý Đầu tư và xây dựng “ ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8 /7 /1999 của Chính phủ.
    Trong lĩnh vực Ngân hàng, các NHTM xuất phát từ đặc điểm là những trung gian tài chính hoạt động trong nền kinh tế, chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế thị trường thì vấn đề hiệu quả và tính an toàn trong kinh doanh tiền tệ là yêu cầu quan trọng hàng đầu. Hiệu quả và chất lượng của tín dụng trung dài hạn quyết định rất lớn đến lợi nhuận cũng như khả năng phát triển của NHTM , đặc biệt là trong điều kiện Việt nam hiện nay, khi mà các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa thật sự đa dạng.
    Trước khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường, toàn bộ nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng chịu sự chi phối của cơ chế đó. Ngân hàng hoạt động theo cơ chế một cấp. Ngân hàng Nhà nước vừa đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước về lưu thông tiền tệ và tín dụng, vừa đảm nhận chức năng kinh doanh. Trên thực tế, Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình hoàn toàn theo sự chỉ đạo bằng kế hoạch cuả Nhà nước. Vốn hoạt động của Ngân hàng phần lớn được lấy từ nguồn cấp páht chứ không phải từ nguồn vốn huy động trong xã hội. Việc cho vay của Ngân hàng thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước với các đối tượng cho vay theo chỉ đạo. Chính vì vậy, việc cấp tín dụng chỉ dựa trên kế hoạch và sự chỉ đạo của cấp trên màkhông cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng, khả năng thu hồi vốn và lãi, các khoản cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng không hề ảnh hưởng đến bản thân sự tồn tại cùng hoạt động của Ngân hàng.
    Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được phân chia thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các NH Thương mại thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. NH Thương mại hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi, “lời ăn lỗ chịu”. Nguồn vốn trong kinh doanh của NH Thương mại giờ đây không còn do Nhà nước bao cấp mà phải tự huy động từ những nguồn nhà rỗi tạm thời trong xã hội, tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí đầu vào, trên quy tắc phù hợp với các chế độ, chính sách kinh tế-xã hội hiện hành của Nhà nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại phần lớn lợi nhuận cho NH Thương mại (trên 70%), được thực hiện trên cơ sở tính toán về khối lượng các nguồn vốn mà Ngân hàng huy động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn tín dụng trong xã hội. Các khoản tín dụng NH Thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế: thu hồi được vốn và lãi đúng hạn. Lãi thu được không chỉ đủ bù đắp phần lãi mà Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và các chi phí khác trong việc thực hiện khoản cho vay, mà còn phải tạo ra lợi nhuận cho hoạt động tín dụng.
    Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động của NH Thương mai phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại. Và cạnh tranh là quá trình diễn ra liên tục, các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng, ngược lại điều đó cũng thể hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro, thất bại. NH Thương mại trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh và hoạt động của nó luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của NH Thương mại như rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh toán, rủi ro về chuyển hoán vốn, rủi ro về lãi suất, rủi ro về hối đoái Trong đó rủi ro kinh doanh tín dụng, đặc biệt là tín dụng
     
Đang tải...