Luận Văn Hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty TNHH thương mại

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    82 trang

    Lời nói đầu


    Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của các Doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất – kinh doanh. Để đảm bảo cho Doanh nghiệp có lợi nhuận và phát triển lợi nhuân, từ đó nâng cao lơi ích của lao động, trong chính sách quản lý, các Doanh nghiệp phải tìm mọi cách tiết kiệm chi phí trong đó có chi phí tiến lương trên một đơn vị sản phẩm.

    Hạch toán tiền lương là một công cụ quản lý của Doanh nghiệp mà thông qua việc cung cấp chính xác số lượng lao động, thời gian lao động, kết quả của kế toán, các nhà quản trị có thể quản lý được chi phí tiến lương trong giá thành sản phẩm.

    Tổ chức công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương là một phần trọng yếu trong côgn tác tổ chức kế toán của Doanh nghiệp. Việc quản lý tốt tiền lương trong các Doanh nghiệp góp phần tăng tích luỹ trong xã hội, giảm đI chi phí trong kinh doanh, khuyến khích tinh thần tự giác trong lao động của công nhân viên. Tiền lương cho họ quan tâm đến kết quả kinh doanh, thúc đẩy họ phát huy khả năng sangkiên' cải tiến kỹ thuật nâng cao tay nghề, chuyên môn góp phần không nhỏ vào việc phồn vinh của Doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung. Ngày nay cuộc sống đang thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi nhu cầu sống ngày càng cao. Chính sự thay đổi đó làm cho tiền lương của công nhân viên trong bất kỳ Doanh nghiệp nào cũng phải có một mức thù lao xứng đáng để phù hơp với cuộc sống hiện tại thì khi đó quản lý tiền lương là yếu tố cực kỳ cần thiết.

    Nhận thức được vai trò của công tác kế toán, đặc biệt là tiền lương và các khoản trích lương trong quản lý chi phí kinh doanh của Doanh nghiệp là vấn đề trọng yếu. Với những kiến thức đã được trang bị tại trường cùng với một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty TNHH thương mại và vận tải Hồng Minh. Em xin chọn đề tai:"Hoan` thiện công tác hạch toán tiền lương và các

    khoản trích theo lương tại Công ty TNHH thương mại và vận tải Hồng Minh” cho chuyên đề thực tập của mình.

    Nội dung của chuyên đề thực tập được chia làm 3 phần như sau:

    Phần I: Những vấn đề lý luận chung về hach toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các Doanh nghiệp.

    Phần II: Thực trạng công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty TNHH thương mại và vận tải Hồng Minh.

    Phần III: Một số ý kiến nhằm tăng cường công tác quản lý và hoàn thiện hạch toán tiền lương, các khoản trích theo lương tại Chi nhánh Công ty TNHH thương mại và vận tải Hồng Minh.




    Phần I

    Những vấn đề lý luận chung hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các Doanh nghiệp.


    I. Bản chất tiền lương trong Doanh nghiệp.

    1. Khái niệm và bản chất kinh tế của tiền lương:

    Quá trình kinh doanh là quá trình kết hợp đồng thời giữa các yếu tố cơ bản (lao động, đối tượng lao động và tiêu thu lao động). Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình, Để bảo đảm tiến hành liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết cần phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động. Tiền lương (tiền công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà Doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp.

    Về bản chất tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá của yếu tố sức lao động mà người sử dụng phải trả cho người cung ứng sức lao động. Tiền lương tuân theo các nguyên tắc cung, cầu, giá cả của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước.

    Đối với các chủ doanh nghiệp, tiền lương là một yếu tố của chi phí vào của hoạt động kinh doanh. Còn đối với người cung ứng sức lao động, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu.

    Mục đích của các nhà kinh doanh là lợi nhuận, còn mục đích lợi ích của người cung ứng sức lao động là tiền lương. Do vậy, tiền lương không chỉ mang bản chất là chi phí, mà nó đã trở thành phương tiện tạo ra giá trị mới hay nói cách khác là nguồn cung ứng sức sáng tạo sức lao động và năng lực của người lao động trong quá trình kinh doanh.

    Đối với người lao động, tiền lương nhận được thoả đáng sẽ là động lực kích thích năng lực sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Mặt khác, khi năng suất lao động tăng thì lợi nhuận Doanh nghiệp sẽ tăng, do đó nguồn phúc lợi của Doanh nghiệp mà người lao động được nhận lại cũng sẽ tăng lên, nó là phần bổ sung thêm cho tiền lương làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho người cung ứng lao động. Hơn nữa, khi lợi ích của người lao động được đảm bảo bằng các mức lương thoả đáng nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng những người lao động với mục tiêu và lợi ích của Doanh nghiệp xoá bỏ sự ngăn cách giữa chủ Doanh nghiệp với người cung ứng sức lao động, làm cho người lao động có trách nhiệm hơn, tự giác hơn với các hoạt động của Doanh nghiệp.

    Một vấn đề mà các doanh nghiệp không thể không quan tâm đó là mức lương tối thiểu. Mức lương tối thiểu do lượng giá trị sức lao động thông thường trong điều kiện làm việc bình thường, yêu cầu một kỹ năng đơn giản, với một khung giá các tư liệu sinh hoạt hợp lý. Đây là cái “nguỡng”+ cuối cùng cho sự trả lương không thấp hơn mức lương tối thiểu được nhà nước quy định. Đồng thời doanh nghiệp phải tính toán giữa chi phí và doanh thu trong đó tiền lương là một chi phí rất quan trọng ảnh hưởng tới mức lao động sẽ thuê làm sao đó tạo ra được lợi nhuận cao nhất.


    2. Chức năng của tiền lương

    - Chức năng tái sản xuất sức lao động:

    Như đã phân tích quá trình tái sản xuất sức lao động được thực hiện bởi việc trả công cho người lao động thông qua lương. Bản chất của sức lao động là sản phẩm lịch sử luôn được hoàn thiện chất lượng một cách tốt nhất, còn bản chất tái sản xuất sức lao động là có một lượng tiền lương sinh hoạt nhất định để họ có thể duy trì và phát triển sức lao động mới, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ, hoàn thành kỹ năng lao động.


    - Chức năng là công cụ quản lý của Doanh nghiệp:

    Trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, người sử dụng lao động bao giờ cũng đứng trước một vấn đề đó là làm thế nào để lợi nhuận cao nhất. Để đạt được mục tiêu đó họ phải kết hợp nhịp nhàng và quản lý một cách nghệ thuật các yếu tố trong kinh doanh. Thông qua việc trả lương cho người

    lao động người sử dụng lao động có thể tiến hành kiểm tra, theo dõi quan sát người lao động làm việc theo kế hoạch, tổ chức của mình để đảm bảo tiền lương bỏ ra phải đem lại kết quả và hiệu quả cao.

    Nhờ đó mà người sử dụng sức lao động quản lý một cách chặt chẽ về số lượng và chất lượng lao động của mình để trả công xứng đáng cho sức lao động.

    - Chức năng kích thích sức lao động:

    Khi được trả công xứng đáng người lao động sẽ say mê hứng thú tích cực làm việc, phát huy tinh thần làm việc sáng tạo, tự học hỏi để nâng cao trình độ. Họ sẽ gắn trách nhiệm của mình với lợi ích của doanh nghiệp nơi mà họ đang làm việc và công hiến. Một mức lương thoả đáng sẽ là động lực thúc đẩy quá trình kinh doanh, tăng hiệu quả công việc.

    Do vậy tiền lương là công cụ khuyến khích vật chất, tạo ra sức có hiệu quả trong công việc của người lao động.


    3. Nguyên tắc tính trả lương:

    Theo điều 55 Bộ luật lao động, tiền lương của người lao động do người lao động sử dụng lao động và người lao động thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.

    Mức lương trong hợp đồng lao động phảI lớn hơn mức lương tối thiểu do nhà nước qui định (290000. đthang/).

    Để điều tiết thu nhập giảm hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo, Nhà nước đã đề ra thuế thu nhập càng cao thì thuế suất càng cao (theo mức thuế suất luỹ tiến).

    Theo NĐ/ 197 Cp ngày 3112/1994/: Làm công việc gì, chức vụ gì hưởng lương theo công việc đó, chức vụ đó thông qua hợp đồng lao động và thoả ước tập thể.

    Đối với nhân viên văn phòng công sở thì cơ sở để xếp lương là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, đối với người phục vụ

    quản lý doanh nghiệp là tiêu chuẩn xếp hạng doanh nghiệp theo chế độ phức tạp về quản lý và hiệu quả kinh doanh.

    Việc trả lương phải theo kết quả kinh doanh và doanh nghiệp phải đảm bảo các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không được thấp hơn mức quy định hiện hành.


    II. Các hình thức trả lương và nội dung quỹ lương

    1. Hình thức trả lương:

    Việc tính và trả chi phí lao động có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức tiền lương theo thời gian.


    * Trả lương theo thời gian:

    Thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ – kế toán

    Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế, theo ngành nghề và trình độ thàn thạo nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn của người lao động. Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau mà mỗi ngành nghề, nghiệp vụ cụ thể có một thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo nghiệp vụ, kỹ thuật, chuyên môn mà chia thành nhiều bậc lương, mỗi bậc lương có một mức tiền lương nhất định.

    Đơn vị để tính tiền lương thời gian là lương tháng, lương ngày hoặc lương giờ:

    - Tiền lương tháng: Là tiền lương cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động, thường được áp dụng để trả lương cho nhân viên làm công tác quản lý kinh tế, quản lý hành chính và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động có tính chất sản xuất.

    - Tiền lương tuần: Là tiền lương cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động, thường được áp dụng để trả lương cho nhân viên làm công tác quản

    lý kinh tế, quản lý hành chính và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất.
     
Đang tải...