Đồ Án Hoàn thiện công tác hạch toán CPSX & tính giá thành sản phẩm tại công ty Xây dựng Điện & dịch vụ PTN

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN THỨ NHẤT
    LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP

    1.1. NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN TRONG TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
    1.1.1. Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
    1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của chi phí sản xuất

    Để tiến hành các hoạt đông sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên kết hợp đầy đủ 3 yếu tố cơ bản, đó là tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động. Từ đó hình thành nên chi phí sản xuất tương ứng là chi phí khấu hao tư liệu lao động, chi phí tiêu hao nguyên vật liệu và chi phí tiền công trả cho người lao động. Ba yếu tố chi phí cơ bản này cấu thành nên giá trị sản phẩm mới trong đó chi phí khấu hao tư liệu lao động và chi phí nguyên vật liệu đóng vai trò là lao động sống. Như vậy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong một thời kỳ nhất định được biểu hiện bằng tiền.
    1.1.1.2. Giá thành và bản chất của giá thành sản phẩm
    Giá thành sản phẩm (công việc lao vụ) là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất hoàn thành.
    Trong xây dựng cơ bản để xây dựng một công trình thì doanh nghiệp phải đầu tư vào quá trình thi công một lượng chi phí nhất định.Vì thế giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ các chi phí đã chi ra cho từng công trình, hạng mục công trình (HMCT) . Hay khối lượng xây dựng cơ bản (XDCB) hoàn thành bàn giao và được chấp nhận thanh toán. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng tài sản vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như tính đúng đắn của các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã sử dụng. Giá thành sản phẩm luôn luôn chứa đựng hai mặt khác nhau, đó là chi phí sản xuất (CPSX ) đã chi ra và giá trị sử dụng cấu thành trong khối lượng sản phẩm hoàn thành. Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố chi phí vào sản phẩm, công việc lao vụ nhất định đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm có hai chức năng cơ bản là chức năng thước đo bù đắp và chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành một khối lượng sản phẩm phải được bù đắp bằng chính số tiền thu về, tiêu thụ, bán sản phẩm lao vụ. Việc bù đắp các chi phí đầu vào đó mới chỉ đảm bảo được quá trình tái sản xuất giản đơn. Mục đích của sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải bù đắp mọi chi phí đầu vào của quá trình sản xuất và phải có lãi. Khác với các doanh nghiệp khác, có thể tính ngay được giá thành sản phẩm và giá thành đó chính là căn cứ để xác định giá bán sản phẩm. ở doanh nghiệp xây lắp giá thành thường mang tính cá biệt, chi phí cho từng công trình, HMCT
    Hơn nữa đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp cơ bản là giá bán có trước khi sản xuất nên giá thành thực tế của công trình quyết định trực tiếp đế lãi, lỗ của công trình. Trong cơ chế thị trường, giá bán sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào qui luật cung-cầu. Trong xây dựng cơ bản cũng vậy, doanh nghiệp chỉ bán được sản phaamrkhi doanh nghiệp có giá thầu hợp lý, hay giá bán công trình, HMCT Chính là giá nhận thầu. Giá này phải dựa trên giá thành dự toán để xác định sao cho đảm bảo doanh nghiệp xây lắp có lãi và tồn tại được.
    1.1.1.3. Phân biệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
    Qua hai khái niệm về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ta có thể thấy về bản chất chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là giống nhau đều là hao phí về lao động sống và lao động vật hoá, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giá thành sản phẩm được tính toán trên cơ sở chi phi sản xuất tập hợp được, nội dung của giá thành chính là chi phi sản xuất tình theo số lượng và loại sản phẩm. Tuy vậy giữa giá thành sản phẩm và chi phi sản xuất cũng có sự khác nhau.
    - Về phạm vi, chi phi sản xuất thường gắn với một thời kỳ nhất định, còn nói đến giá thành sản phẩm là xem xét đề chi phi sản xuấtập đến mối quan hệ của chi phí đến quy trình chi phi sản xuất công nghệ sản xuất (đã hoàn thành).
    - Về nội dung, chi phi sản xuất giá thành sản phẩm gồm toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ mà không có chi phí đã phát sinh và chưa phát sịnh. Còn giá thành sản phẩm thì gồm tất cả các chi phí liên quan đến sản phẩm hoàn thành, nó gồm cả chi phí kỳ trước và chi phí thực tế đã phát sinh kỳ trước phân bổ cho kỳ này (nếu có).
    Việc giới hạn chi phí tính vào giá thành sản phẩm là những chi phí nào tuỳ thuộc vào quan điểm tính toán xác định chi phí , doanh thu và kết quả cũng như quy định của chế độ quản lý kinh tế tài chính , chế độ kế toán hiện hành.
    Tóm lại chi phí sản xuất phát sinh tập hợp được theo từng đối tượng xác định là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, giá thành sản phẩm tình được là cơ sở để kiểm tra thực hiện các định mức, dự toán chi phí
    1.1.2. Sự cần thiết khách quan phải tổ chức kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
    Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay khi các doanh nghiệp được toàn quyền chủ động trong hoạt đông sản xuất kinh doanh, trong hạch toán kinh tế thì doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc quản lý chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm sao cho với chi phi bỏ ra là ít nhất mà hiệu quả đem lại là cao nhất. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải kết hợp nhiều biện pháp quản lý đối với hoạt động SXKD của mình. Trong đó kế toán được coi là công cụ quản lý có hiệu quả, nó cung cấp cho các nhà quản lý doanh nghiệp những số liệu chính xác nhất về chi phí của từng bộ phận, từng công việc cũng như toàn doanh nghiệp để các nhà quản lý có thể đánh giá được tình hình thực hiện kế hoạch định mức về chi phì và giá thành cũng như tình hình sử dụngvật tư, lao động, vốn
    Từ đó các nhà quản lý đề ra các biện pháp quản lý kịp thời, hiệu quả nhất nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
    Mặt khác, việc thực hiện tốt công tác kế toán tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn có ý nghĩa quan trọng đối với các bên liên quan đến doanh nghiệp . Cụ thể đối với nhà nước việc các doanh nghiệp làm tốt công tác này sẽ giúp nhà nước có cái nhìn tổng thể toàn diện với sự phát triển của nền kinh tế, từ đó có khả năng điều chỉnh kịp thời ban hành đường lối, chính sách phù hợp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Hơn nữa, cong tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác đầy đủ còn ảnh hưởng trực tiếp đến số thuế mà doanh nghiệp phải nộp.
    Nói tóm lại công tác tập hợp chi phi sản xuất và tính giá thành sản phẩm đóng vai trò quan trọng nó liên quan đến lợi ích doanh nghiệp Nhà nước và các bên liên quan. Chính vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện công tác này theo đúng quy định và phù hợp với tình hình thực tế của mình.

    [​IMG]
     
Đang tải...