Thạc Sĩ Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 27/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI
    LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
    Chuyên ngành: Thương Mại
    NĂM, 2012
    MỤC LỤC (Luận án dài 182 trang)
    LỜI CAM ĐOAN i
    MỤC LỤC ii
    DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
    DANH MỤC BẢNG, BIỂU, BIỂU ĐỒ, HỘP vi
    CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬN ÁN 1
    1.1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án 1
    1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài trong và ngoài nước 5
    1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Luận án 8
    1.4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài Luận án 8
    1.5. Phương pháp nghiên cứu 9
    1.6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án 9
    1.7. Kết cấu nội dung Luận án 10
    CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHÂN PHỐI BÁN LẺ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ 11
    2.1. Tổng quan về dịch vụ phân phối bán lẻ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế 11
    2.1.1. Khái niệm và phân loại dịch vụ phân phối bán lẻ 11
    2.1.2. Vai trò của dịch vụ phân phối bán lẻ đối với phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại ngày nay 20
    2.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển và các xu hướng phát triển DVPPBL 22
    2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ phân phối bán lẻ trong điều kiện hội nhập quốc tế 29
    2.2. Chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ trong điều kiện hội nhập quốc tế 32
    2.2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của chính sách phát triển DVPPBL trong điều kiện hội nhập quốc tế 32
    2.2.2. Khung khổ chung của chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ 36
    2.3. Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế 44
    2.3.1. Khái niệm và nội dung hoàn thiện chính sách phát triển DVPPBL trong điều kiện hội nhập quốc tế 44
    2.3.2. Các nhân tố tác động đến việc hoàn thiện chính sách phát triển DVPPBL hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế 49
    2.4. Một số bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm nước ngoài về điều chỉnh và hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ trong bối cảnh hội nhập 51
    CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHÂN PHỐI BÁN LẺ HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 55
    3.1. Khái quát thực trạng phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập 55
    3.1.1. Các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hoá của Việt Nam 55
    3.1.2. Khái quát thực trạng phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế 58
    3.2. Thực trạng xây dựng, điều chỉnh chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế 67
    3.2.1. Thực trạng chính sách khung của Nhà nước đối với phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ trong thời kỳ hội nhập 67
    3.2.2. Thực trạng điều chỉnh các chính sách cụ thể tác động đến sự phát triển DVPPBL ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập 73
    3.3. Đánh giá chung về những thành tựu, hạn chế của chính sách hiện hành về phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ và những nguyên nhân 104
    3.3.1. Những thành tựu chủ yếu và nguyên nhân 104
    3.3.2 Một số tồn tại, bất cập của chính sách hiện hành về phát triển DVPPBL và nguyên nhân 107
    CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ PHÂN PHỐI BÁN LẺ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ TỚI NĂM 2020 113
    4.1. Triển vọng phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế thời kỳ tới năm 2020 113
    4.2. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ thời kỳ tới 2020 124
    4.2.1. Mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc chung về hoàn thiện chính sách phát triển DVPPBL thời kỳ tới 124
    4.2.2. Phương hướng hoàn thiện chính sách khung phát triển DVPPBL thích ứng với cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ tới 126
    4.3. Kiến nghị hoàn thiện các chính sách cụ thể tác động đến sự phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ ở Việt Nam thời kỳ tới 130
    4.3.1. Hoàn thiện các chính sách tác động đến sự gia nhập thị trường và cạnh tranh trên thị trường dịch vụ phân phối bán lẻ 130
    4.3.2. Hoàn thiện các chính sách tác động đến đầu tư phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ 133
    4.3.3. Hoàn thiện các chính sách tác động đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả vận doanh của các cơ sở bán lẻ 136
    TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN, RÚT RA MỘT SỐ KẾT LUẬN KHOA HỌC CHỦ YẾU SAU 139
    DANH MỤC CÁC BÀI BÁO CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
    PHỤ LỤC

    CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬN ÁN
    1.1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
    Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và trong điều kiện hội nhập quốc tế, lĩnh vực phân phối là sự kết nối sống còn giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nó đóng vai trò là một trong những “trung gian” để xâu chuỗi các khâu trong toàn bộ quá trình tái sản xuất mở rộng các ngành sản phẩm nông - công nghiệp, từ cung ứng đầu vào đến tiêu thụ đầu ra trên thị trường, góp phần phát triển các chuỗi giá trị của các ngành sản phẩm trong nước, kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu. Hoạt động phân phối mang bản chất của hoạt động dịch vụ. Theo phân loại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ phân phối (DVPP) là một trong số 11 ngành dịch vụ chính, gồm 4 phân ngành: dịch vụ bán buôn (DVBB), dịch vụ bán lẻ (DVBL), dịch vụ đại lý hoa hồng và nhượng quyền kinh doanh. Trong đó, dịch vụ chính do nhà bán buôn và nhà bán lẻ thực hiện. DVBB bao gồm việc bán hàng cho những người bán lẻ, những doanh nghiệp sử dụng hàng hóa của những ngành công nghiệp, thương mại, các tổ chức đơn vị chuyên môn hoặc cho người bán buôn khác. Những người bán lẻ phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Nói cách khác, bán buôn là việc bán hàng hóa (thường là các dịch vụ kèm theo) cho đối tượng người mua để sản xuất, để bán lại hoặc tiêu dùng vì mục đích sự nghiệp hoặc kinh doanh. Bán lẻ là hoạt động có nghiệp vụ chủ yếu là bán hàng hóa cùng các dịch vụ kèm theo cho người tiêu dùng cuối cùng, đó là tiêu dùng cá nhân và gia đình, tiêu dùng không mang tính kinh doanh. Ngày nay dịch vụ bán lẻ đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và hướng mạnh mẽ tới người tiêu dùng.
    Sự phát triển của dịch vụ phân phối bán lẻ (DVPPBL) theo hướng hiện đại không chỉ gắn với việc cung cấp các sản phẩm ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng, mà còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các dịch vụ bổ sung là những dịch vụ giúp cho sự lựa chọn chính xác hơn và tăng thêm sự thuận tiện hơn khi mua hàng. Đồng thời, nó cũng cung cấp cho nhà sản xuất nhiều thông tin cần thiết từ phía cầu để điều chỉnh những quyết định của họ theo nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó, sự thất bại của ngành DVPP nói chung, DVPPBL nói riêng trong việc thực hiện đầy đủ vai trò, chức năng phân phối của mình có thể dẫn tới những sai lệch lớn trong hệ thống phân bổ nguồn lực của xã hội và thiệt hại cho nền kinh tế trong cả ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Cho nên, để tránh cho nền kinh tế vấp phải thất bại đó của thị trường, nhà nước phải can thiệp điều tiết và quản lý sự phát triển của dịch vụ phân phối bán lẻ. Đồng thời, phạm vi của lĩnh vực PPBL trong thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và việc phát triển những công nghệ mới đặc biệt là công nghệ thông tin. Trong xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu, phần lớn các nước, trước hết là những thành viên WTO, đều phải mở cửa thị trường DVPP, thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT), dẫn đến sự phát triển nhanh của mạng lưới phân phối toàn cầu với chủ thể chính chi phối và lãnh đạo là các tập đoàn phân phối đa quốc gia. Mặt khác, trong chuỗi giá trị toàn cầu của các ngành sản phẩm, khâu phân phối bán lẻ là khâu có giá trị gia tăng cao, tỷ suất lợi nhuận cao nên có sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt của các nhà phân phối bán lẻ trong và ngoài nước. Vì thế, sự quản lý, điều tiết của nhà nước đối với sự phát triển DVPPBL càng trở nên cần thiết để đảm bảo lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế.
    Trong thời đại toàn cầu hóa, sự hình thành và phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ không chỉ luôn gắn với các dịch vụ chính khác (bán buôn, đại lý uỷ quyền, nhượng quyền .), mà còn luôn gắn với cả các dịch vụ phụ trợ có liên quan đến hoạt động bán lẻ hàng hoá, không chỉ bao hàm hệ thống phân phối bán lẻ truyền thống mà còn bao hàm cả hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại.
    Đối với Việt Nam, công cuộc Đổi mới đất nước được bắt đầu sớm nhất và sâu sắc nhất trong lĩnh vực thương mại bán lẻ hàng hoá (bắt đầu từ Nghị quyết TW6, khóa VI năm 1987). Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết số 12/NQ-TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị (Khoá VII), thực hiện Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 02/2003/NĐ-CP, Quyết định số 27/2007/QĐ-TTg và các văn bản chỉ đạo khác của Đảng và Chính phủ về phát triển thương mại trong nước, Bộ Thương mại trước đây và hiện nay là Bộ Công Thương đã tổ chức thực hiện tốt các chính sách phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá, nhất là trong phát triển kết cấu hạ tầng cho hoạt động thương mại bán lẻ hàng hoá phát triển . Dưới tác động của chính sách Đổi mới, hoạt động dịch vụ phân phối bán lẻ và thị trường bán lẻ Việt Nam đã phát triển nhanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
    Thị trường bán lẻ hàng hoá Việt Nam có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới từ sau năm 2001, bình quân tăng 25%/năm và có xu hướng ngày càng tăng cao (năm 2007 tăng 27,3%, năm 2008 tăng trên 30%, năm 2009 trong điều kiện suy giảm kinh tế nhưng vẫn tăng 18% và năm 2010 tăng 24,5%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng 13% ). Sau trên 15 năm từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá ở Việt Nam đã từng bước phát triển theo hướng hiện đại, kết nối giữa hệ thống trong nước với các kênh xuất, nhập khẩu hàng hoá, giữa các trung tâm phân phối lớn với các cửa hàng tiện lợi, bám sát khu dân cư, giữa các hình thức phân phối truyền thống với các hình thức mới hiện đại, đáp ứng nhu cầu hàng hoá ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư. Việt Nam đang trở thành thị trường bán lẻ đầy tiềm năng, có sức hấp dẫn cao với các nhà đầu tư nước ngoài. Đây vừa là thời cơ vừa là nguy cơ đối với các doanh nghiệp phân phối Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài đang không ngừng tăng cường thế lực để mở rộng thị phần bán lẻ ở Việt Nam, nhất là trên các đô thị lớn.
    Quy mô thị trường bán lẻ ngày càng lớn. Năm 2010 tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ xã hội (LCHHBL&DTDVXH) đạt trên 1.561,6 ngàn tỷ đồng, gấp khoảng 6 lần năm 2001, nâng mức bình quân đầu người từ 2,54 triệu đồng năm 2001 lên 17,7 triệu đồng năm 2010. Trong giai đoạn 2006-2010 quy mô thị trường bán lẻ đã bằng khoảng 65% GDP trong cùng giai đoạn, phản ánh DVPPBL có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
    Thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam (bán buôn, bán lẻ, đại lý uỷ quyền và nhượng quyền thương mại) đã từng bước mở cửa theo các cam kết quốc tế đa phương, song phương, bắt đầu từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN (Tháng 7/1995). Từ khi gia nhập WTO (Tháng 11/2006), nhất là từ sau 1/1/2009, thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam về cơ bản đã mở cửa như cam kết của Việt Nam với Hoa Kỳ trong Hiệp định thương mại song phương (BTA). Trong đó, từ 1/1/2009 cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tương tự như BTA, Việt Nam không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quí cho nước ngoài; nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi măng . Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm gia nhập WTO, hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ của các doanh nghiệp FDI; nhà phân phối nước ngoài chỉ được thành lập liên doanh góp vốn nước ngoài không quá 49% ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO .
    Mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng thị trường bán lẻ và hệ thống phân phối bán lẻ hàng hoá trên thị trường trong nước đang bộc lộ những yếu kém không nhỏ. Thị trường phát triển không bền vững, các hệ thống phân phối còn mỏng manh dễ bị tổn thương trước các tác động giá cả thị trường thế giới và quan hệ cung – cầu trong nước. Kết cấu hạ tầng thương mại tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng xét về tổng thể vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ . nên chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh của thương mại trong nước. Cơ sở hậu cần phân phối logistics (cảng, kho, vận chuyển .) vừa ít, vừa yếu và thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo hỗ trợ và phục vụ tốt cho khâu bán buôn, bán lẻ. Các phương thức kinh doanh tiến bộ, hiện đại như liên kết “chuỗi”, trung tâm mua sắm, chuỗi siêu thị, chuỗi cửa hàng tiện lợi, bán hàng qua mạng, chợ “ảo” . chỉ mới manh nha hình thành, chưa nhiều và chưa mạnh. Cơ cấu kênh phân phối hàng hoá nói chung và các mặt hàng quan trọng, đặc thù nói riêng còn mang nặng tính tự phát, thiếu tính chuyên nghiệp. Lực lượng thương nhân trên thị trường bán lẻ Việt Nam tuy tăng nhanh về số lượng và biến đổi mạnh về cơ cấu trong quá trình hội nhập, nhưng thiếu những doanh nghiệp lớn, có thương hiệu mạnh, có tính chuyên nghiệp cao; quá trình tích tụ và tập trung nguồn lực của doanh nghiệp bán lẻ nhìn chung diễn ra chậm.
    Nhìn chung, các nhà phân phối bán lẻ Việt Nam vẫn chưa tạo được các “khớp nối” linh hoạt giữa các khâu sản xuất – phân phối – tiêu dùng, giữa các kênh lưu thông hàng hoá trong nước với các kênh xuất khẩu, nhập khẩu, chưa đóng vai trò là “trung gian” để xâu chuỗi các khâu trong toàn bộ chu trình tái sản xuất mở rộng các ngành sản phẩm công – nông nghiệp, từ cung ứng đầu vào đến sản xuất và tiêu thụ đầu ra trên thị trường trong và ngoài nước nhằm phát triển các chuỗi giá trị của các ngành sản phẩm trong nước, kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu.
    Có nhiều nguyên nhân của tình trạng nêu trên, trong đó có nguyên nhân quan trọng là những bất cập, yếu kém về quản lý vĩ mô lĩnh vực phân phối bán lẻ của Nhà nước và những yếu kém này chậm được khắc phục. Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích để củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng cho phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ còn rất ít, thiếu tính liên tục, nhất quán và đồng bộ. Hầu như chưa có chính sách ưu đãi (thuế, đất đai, tín dụng .) cho đầu tư dịch vụ phân phối bán lẻ. Phân công và qui định chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thị trường bán lẻ còn có những bất hợp lý, thiếu rành mạch, chồng chéo giữa các cơ quan, đơn vị, trong khi lại chưa có người “nhạc trưởng” v .v .
    Bối cảnh, đặc điểm và xu hướng nêu trên đặt ra những yêu cầu mới trong công tác quản lý Nhà nước đối với quá trình hình thành, phát triển DVPPBL trên thị trường trong nước, trước hết là trong xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ dịch vụ bán lẻ. Trong đó, đối tượng và phạm vi tác động của chính sách phát triển DVPPBL không chỉ gồm dịch vụ chính là hoạt động bán lẻ, được gắn kết với các dịch vụ phân phối chính khác (bán buôn, đại lý uỷ quyền, nhượng quyền thương mại) mà còn bao gồm cả các dịch vụ phụ trợ có liên quan đến hoạt động bán lẻ hàng hoá.
    Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung 2011), trong đó đã xác định rõ:”Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất ”. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 vừa được Đại hội XI của Đảng thông qua cũng đã đề ra định hướng “Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và tăng mức độ cao hơn GDP ; mở rộng thị trường nội địa, phát triển thương mại trong nước ; chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, phát triển thương hiệu hàng hóa Việt nam ; phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô” .”Thực hiện hệ thống cơ chế và chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính tiền tệ nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế”.
    Như thế, để phát triển DVPPBL ở Việt Nam theo hướng hiện đại, hiệu quả, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao với các Tập đoàn phân phối bán lẻ nước ngoài trên thị trường bán lẻ Việt Nam trong điều kiện tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo khớp nối linh hoạt giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng . thì yêu cầu bức thiết đang đặt ra là phải tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ. Trong đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển DVPPBL ở thị trường trong nước.
    Vì vậy, đề tài nghiên cứu về: Hoàn thiện chính sách phát triển dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” được chọn làm đề tài Luận án Tiến sĩ kinh tế nhằm giải quyết vấn đề cấp thiết nêu trên.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...