Luận Văn Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn

Thảo luận trong 'Xã Hội Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. PHẦN DẪN NHẬP


    1. Lí do chọn đề tài
    Trong những năm gần đây, tỉ lệ sinh đẻ giảm, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt, tuổi thọ trung bình kéo dài, cùng với những nguyên nhân chính trị - xã hội khác khiến cho tỉ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng. Liên Hợp Quốc cảnh báo rằng “kỉ nguyên của người cao tuổi” sẽ nổi lên trong thế kỉ 21. Những dự báo trên đã thành hiện thực khi nhóm người cao tuổi nhất thế giới tại thời điểm năm 2005 chiếm 18% tổng dân số toàn thế giới, 24% tại các quốc gia phát triển và 15% tại các quốc gia kém phát triển. Dự kiến đến năm 2025 sẽ đạt tới 1,2 tỷ người cao tuổi chiếm khoảng 20% dân số thế giới.

    Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số với tốc độ ngày càng nhanh. Theo kết quả sơ bộ Tốc độ tăng dân số 2009, tỷ lệ người cao tuổi hơn 9%. Tuổi thọ bình quân chung là 72,8 tuổi. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đang tăng nhanh so sánh giữa hai cuộc Tốc độ tăng dân số 1999 và 2009, tuổi thọ bình quân của nam tăng 3,7 tuổi từ 66,5 tuổi lên 70,2 tuổi. Nữ tăng 5,5 tuổi từ 70,1 tuổi lên 75,6 tuổi. Số cụ hơn 100 tuổi tăng gấp 2 lần so với Tốc độ tăng dân số 1999 (khoảng 7.200 cụ). Theo dự báo nước ta bước vào giai đoạn già hóa dân số vào năm 2015 nhưng thực tế hiện nay là ngay từ những năm 2010. Theo phân tich và nhận định của các nhà nhân khẩu học kinh tế trong nước và ngoài nước, cơ cấu dân số Việt Nam đã bước vào giai đoạn “Cơ cấu dân số vàng” hay “cửa sổ cơ hội dân số” hoặc “dư lợi dân số”. Thông thường cơ cấu dân số của một quốc gia sẽ chuyển đổi từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số “Dư lợi nhân khẩu học” rồi tiếp đến cơ cấu dân số già. Dân số Việt Nam có sự chuyển đổi đặc biệt tức là vừa bước vào giai đoạn nhiều người trong tuổi lao động nhưng đồng thời cũng già hóa. Chỉ tiêu về chất lượng dân số tuy đạt mục tiêu Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đề ra, nhưng mức xuất phát điểm còn thấp về cả thể chất, trí tuệ và tinh thần. Mặc dù tuổi thọ bình quân đạt 72,8 tuổi vào năm 2009, song tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và đứng thứ 116/182 nước trên thế giới. Người cao tuổi là mối quan tâm không chỉ của cá nhân, gia đình mà cả xã hội vì đây là nhóm đối tượng đặc thù – những người không còn làm việc một cách chính thức trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp. Chuyển sang hoạt động trong môi trường mới với nhiều thay đổi đòi hỏi bản thân người cao tuổi phải thích nghi, hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội.
    Người cao tuổi có những ưu thế về đóng góp của họ với gia đình, xã hội, về kinh nghiệp sống và khả năng tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm lí nổi bật của người cao tuổi là nuối tiếc tuổi trẻ, hay hoài cổ. Họ thường nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, rất tự hào với kinh nghiệm sống đã qua của mình. Họ nhạy bén với cái mới, cái hiện đại, với sự biến động của lịch sử, các sự kiện diễn ra hàng ngày. Nhiều cán bộ viên chức sau khi về hưu, từ chỗ hết sức bận rộn với công việc nay lại rỗi rãi, không có việc gì làm, bị hụt hẫng, đồng thời lại thấy mình mất vị trí, quyền lực trong xã hội. Họ cảm thấy không còn được kính nể, trong vọng như trước đây, từ đó nảy sinh stress tâm lí. Cùng với sự suy giảm về sức khỏe, người cao tuổi nghĩ mình trở thành người thừa đối với gia đình và xã hội, mình không còn vai trò hữu ích nữa, không ai cần mình nữa. Vì vậy họ cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn nên sinh tủi phận, buồn bã. Do đó, tính tình người cao tuổi cũng thay đổi, họ trở lên cố chấp, bảo thủ, hay bám lấy cái cũ và bị gánh nặng quá khứ đè nén. Chính vì những tâm sinh lí đó mà người cao tuổi cần được sự trợ giúp, quan tâm không những từ gia đình mà cần thiết phải có sự hỗ trợ từ xã hội, chính quyền địa phương, Đảng và Nhà nước.
    Nhận thấy việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi hiện nay đang là vấn đề bức thiết và cân được quan tâm nên em đã chọn đề tài “Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ - TP. Quy Nhơn)”.Trên cơ sở khảo sát và tìm hiểu, đưa ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi tại Quy Nhơn nói riêng và người cao tuổi Việt Nam nói chung.

    2. Mục tiêu của đề tài
    Tìm hiểu về vấn đề hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại Thành phố Quy Nhơn.
    3. Nhiệm vụ của đề tài
    Tìm hiểu các đặc trưng về hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi (sức khỏe – y tế, tinh thần, vật chất) ở Thành phố Quy Nhơn.
    Tìm hiểu những yếu tố xã hội – văn hóa của người cao tuổi như về giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp trước đây, thu nhập,
    Làm rõ việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi thông qua sự giúp đỡ về: chăm sóc sức khỏe, trò chuyện thăm hỏi, sinh hoạt hàng ngày, tiền/vật dụng lớn, thực phẩm/vật dụng nhỏ, việc làm/ sản xuất kinh doanh.
    Đưa ra các giải pháp và định hướng đối với việc hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi.
    Cuối cùng, trên cơ sở phân tích và nhận định về vấn đề, luận văn đưa ra kết luận và một số kiến nghị đối với việc hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi, nhằm nâng cao sự trợ giúp của cộng đồng và xã hội đối với việc chăm sóc sức khỏe, tinh thần cũng như vật chất cho người cao tuổi.
    4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi,. Khách thể nghiên cứu là quá trình sống của người cao tuổi (có độ tuổi từ 60 trở lên). Phạm vi nghiên cứu là khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định.
    5. Các giả thuyết nghiên cứu
    Trên cơ sở lí luận và những lí thuyết tiếp cận đã trình bày ở trên, tác giả đưa ra các giả thuyết mà luận văn phải kiểm chứng:
    - Giả thuyết thứ nhất: Người cao tuổi tại Thành phố Quy Nhơn đã thiết lập cho mình một mạng lưới xã hội ở mức độ rộng hẹp nhất định, giúp họ giải quyết những khó khăn cả về vật chất và tinh thần trong cuộc sống.
    - Giả thuyết thứ hai: Sự hỗ trợ xã hội của người cao tuổi có sự khác nhau tùy thuộc vào: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập.
    + Về giới tính: có sự hỗ trợ xã hội khác nhau giữa cụ ông và cụ bà.
    + Về độ tuổi : người cao tuổi càng cao thì sự hỗ trợ xã hội tăng so với những người cao tuổi trong độ tuổi “trẻ” hơn.
    + Về nghề nghiệp: Người cao tuổi là hưu trí có xu hướng nhận được sự hỗ trợ xã hội nhiều hơn so với người cao tuổi thuộc nhóm nghề khác.
    + Về thu nhập: Người cao tuổi có thu nhập thấp nhận được sự hỗ trợ xã hội ít hơn so với những người cao tuổi có thu nhập cao.
    - Giả thuyết thứ ba: Người cao tuổi sống bằng lao động hiện tại được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nhưng quy định độ tuổi được nhận trợ cấp xã hội.
    - Giả thuyết thứ tư: Người cao tuổi ở những điều kiện sống, hoàn cảnh sống khác nhau có sự hỗ trợ xã hội khác nhau.
    6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn
    6.1 Ý nghĩa lí luận
    Với mục đích tìm hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Những thông tin thực nghiệm thu được từ thực tế sẽ đóng góp thêm vào nguồn tham khảo cho việc phân tich và nghiên cứu lí luận của xã hội học người cao tuổi ở khía cạnh hỗ trợ xã hội.
    Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu sau về lĩnh vực này.
    6.2 Ý nghĩa thực tiễn
    Ngày nay, người cao tuổi trở thành vấn đề toàn cầu và đang là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế bởi người cao tuổi đang ngày càng gia tăng về số lượng và đang có xu hướng tăng nhanh do tác động của 2 yếu tố: tuổi thọ bình quân tăng cũng với tiến bộ của y học và tăng trưởng kinh tế. Kéo theo đó là những vấn đề về chăm sóc sức khỏe, vấn đề tinh thần, giao thông, y tế, vui chơi – giải trí, đối với người già cũng được quan tâm một cách toàn diện. Chăm lo cho cuộc sống người cao tuổi là một trong những nhiệm vụ quan trọng không chỉ của cá nhân, gia đình mà toàn xã hội. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ là một gợi ý để nhận thức rõ hơn về người cao tuổi hiện nay trên mọi mặt đời sống: tinh thần, vật chất, sức khỏe – y tế.Thấy được tầm quan trọng của việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi, để từ đó phát huy hơn nữa việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho họ.
    7. Phương pháp nghiên cứu
    7.1 Phương pháp luận
    Phương pháp luận trong nghiên cứu luận văn này là phương pháp duy vật biện chứng.
    Phương pháp điều tra xã hội học cụ thể.
    Một số phương pháp chung: diễn dịch, quan sát, lắng nghe, phân tich, tổng hợp.
    7.2 Phương pháp cụ thể và kĩ thuật điều tra
    7.2.1 Thu thập thông tin
    7.2.1.1 Thu thập thông tin tư liệu
    Thu thập những luận văn, khóa luận, sách, bài báo, bài viết trích trên các tạp chí, phương tiện truyền thông, về vấn đề hỗ trợ xã hội và người cao tuổi.
    7.2.1.2 Thu thập thông tin định lượng
    Phỏng vấn dựa trên phiếu thu thập ý kiến. Phiếu điều tra gồm tất cả 26 câu hỏi.
    Bảng hỏi được chia làm ba phần: Phần một với 5 câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu – xã hội của đối tượng dùng để mô tả đặc điểm mẫu điều tra, đồng thời cũng là những phân tổ chính khi xử lý thông tin định lượng. Phần hai gồm 19 câu hỏi mô tả về đặc trưng hỗ trợ xã hội của người cao tuổi về mọi mặt: vật chất, tinh thần, sức khỏe – y tế. Phần ba gồm 2 câu hỏi khảo sát thêm về hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi.
    7.2.1.3 Thu thập thông tin định tính
    Nhằm làm rõ hơn những nội dung liên quan tới việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi, tôi tiến hành phương pháp thu thập thông tin định tính thông qua phỏng vấn sâu. Cụ thể là phỏng vấn sâu 6 người cao tuổi trong mẫu dựa vào những đặc điểm giới tính và nghề nghiệp: 3 cụ ông/ cụ bà là hưu trí, 3 cụ ông/ cụ bà là dân thường.
    Bên cạnh đó, phương pháp quan sát cũng được thực hiện nhằm tìm hiểu trực tiếp sinh hoạt và các mối quan hệ diễn ra trong gia đình và cộng đồng của người cao tuổi.
    7.2.2 Phương pháp chọn mẫu
    Trong điều kiện hạn chế trước số lượng người cao tuổi khá lớn trên địa bàn thành phố, trước tiên áp dụng phương pháp chọn mẫu điển hình. Phường Nguyễn Văn Cừ với đặc trưng có dân số đông nhất so với các phường với diện tich 143 ha có 2.667 hộ với 12.105 nhân khẩu, dân tộc Kinh chiếm trên 11.000, có 587 tín đồ tôn giáo. Đi vào cụ thể trong phường, mẫu điều tra lại một lần nữa ấn định theo mẫu điển hình. Cụ thể, chon 3 khu vực 1, 3, 8. Trong mỗi khu vực chọn người cao tuổi theo mẫu ngẫu nhiên. Tổng số mẫu được chọn là 130 người, trong đó khu vực 1 là 35 người, khu vực 3 là 40 người và khu vực 8 là 55 người.
    7.2.3 Phương pháp xử lí thông tin
    7.2.3.1 Tư liệu thu thập được
    Về thông tin tư liệu: Tất cả những thông tin thu thập được, tổng thuật hoặc lược thuật theo những chu đề: Tổng quan tình hình nghiên cứu, xác lập một số lí thuyết, khái niệm làm cơ sở lí luận, xây dựng giả thuyết nghiên cứu. Tiếp theo, mô tả bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội thành phố Quy Nhơn, mô tả chân dung người cao tuổi trong mẫu nghiên cứu, mở đầu cho nghiên cứu thực nghiệm, nối tiếp xử lí thông tin định tính, định lượng.
    7.2.3.2 Thông tin định lượng
    Sau khi thu thập thông tin, xử lí bảng hỏi bằng cách thống kê, xét mối tương quan trong các câu hỏi, để từ đó có một kết luận chính xác nhất.
    7.2.3.3 Thông tin định tính
    Các thông tin thu được tôi phân loại, chọn lọc dưới dạng trích dẫn từ các biên bản gỡ băng hay báo cáo quan sát kết hợp với những thông tin định lượng số liệu thồng kê để dẫn giải và phân tich vấn đề.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...