Tài liệu Hồ Chí Minh

Thảo luận trong 'TT Hồ Chí Minh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Hồ Chí Minh

    Hồ Chí Minh
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Bước tới: menu, t́m kiếm
    [​IMG]
    Để biết về Bút hiệu Nguyễn Ái Quốc, xem Nguyễn Ái Quốc (bút hiệu).
    [TABLE]
    [TR]
    [TD=colspan: 2]Hồ Chí Minh
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 2][​IMG]
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tên:
    [/TD]
    [TD]Hồ Chí Minh
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Hán-Nôm:
    [/TD]
    [TD]胡志明
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tên thật:
    [/TD]
    [TD]Nguyễn Sinh Cung
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tự:
    [/TD]
    [TD]Nguyễn Tất Thành
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Ngày sinh:
    [/TD]
    [TD]19 tháng 5 năm 1890
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Ngày mất:
    [/TD]
    [TD]2 tháng 9 năm 1969
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Tên khác:
    [/TD]
    [TD]Nguyễn Ái Quốc
    Lư Thụy
    Hồ Quang
    Bác Hồ
    Cụ Hồ
    Ông Ké
    Thầu Chín
    Văn Ba
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Hồ Chí Minh (chữ Hán: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969) là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền móng và lănh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lănh thổ cho Việt Nam. ễng là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥangày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đ́nh, Hà Nội, là Chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969. Là nhà lănh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, h́nh ảnh của ông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ, và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam[SUP][1][/SUP].
    Tiểu sử
    Gia đ́nh và quê quán
    Bài chi tiết: Gia đ́nh Hồ Chí Minh
    Theo gia phả của ḍng họ Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn, Nghệ An th́:
    Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân, . tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lờ Thỏnh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba ., tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội ., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm[SUP][2][/SUP]). Cả bốn đời đầu tiên của ḍng họ đều chưa lấy đệm là Sinh và không rơ năm sinh, năm mất[SUP][3][/SUP].
    Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung (阮生恭, giọng địa phương phát âm là Cụụng), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tờn nụm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trự (tờn nụm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xă Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên[SUP][4][/SUP] là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này c̣n có tên là làng Đai Khố[SUP][5][/SUP]. Vào đời ông, phần lớn ḍng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp[SUP][6][/SUP].
    Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng[SUP][7][/SUP]. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. ễng có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, c̣n gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt ḷng là Xin).
    Theo lư lịch chính thức, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất:

    Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
    Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của ḿnh là 15 tháng 1 năm 1894.
    Theo một tài liệu do Pḥng nh́ Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ụng, thỡ ụng sinh tháng 4 năm 1894.
    Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liờn Xụ ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, th́ ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
    Tuổi trẻ
    [​IMG]
    [​IMG]
    Trường Dục Thanh
    Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đơy ụng bắt đầu dựng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác[SUP][8][/SUP].
    Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Phỏp-Việt Đụng Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 v́ tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ[SUP][9][/SUP]. Cha ông bị triều đ́nh khiển trách v́ hành vi của hai con trai. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đ́nh.
    Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. ễng dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành[SUP][10][/SUP][SUP][11][/SUP]. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài G̣n. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 thỏng thỡ bỏ khi nhận ra rằng phải học 3 năm mới thành nghề[SUP][12][/SUP]. ễng quyết định sẽ t́m một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
    Hoạt động ở nước ngoài
    Bài chi tiết: Hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1911-1941
    Thời ḱ 1911-1919
    Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Trộville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt ḷ rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
    Thời ḱ ở Pháp
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tấm biển đồng gắn tại nhà số 9 ngơ Compoint, quận 17 Paris: Tại đây, từ năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đă sống và chiến đấu v́ quyền độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam và các dân tộc bị áp bức
    Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, ụng đó viết Yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), kư tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Ḥa b́nh Versailles. Từ đó ụng dựng tên Nguyễn Ái Quốc.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
    Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. ễng tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xă hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xă hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xă hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigốnes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp bằng tiếng Pháp (Procốs de la colonisation franỗaise) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đă tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
    Thời ḱ ở Liờn Xụ lần thứ nhất
    [​IMG]
    [​IMG]
    Nguyễn Ái Quốc, chụp tại Liờn Xụ năm 1923
    Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây ụng đó dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
    Thời ḱ ở Trung Quốc (1924-1927)
    Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liờn Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lư Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liờn Xụ bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
    Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mỏc–Lờ-nin) vào Việt Nam. CuốnĐường Kỏch mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
    Trong thời gian ở Quảng Chơu, ụng đó kết hôn với một hộ lư Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh, (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ụng đó trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, cả hai người đó tỡm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công.[SUP][13][/SUP][SUP][14][/SUP]
    Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liờn Xụ. Thỏng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
    Những năm 1928, 1929
    Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều.
    Cuối năm 1929, ông rời Thái Lan sang Trung Quốc.
    Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
     
Đang tải...