Thạc Sĩ Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1
    MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    1.1. Chuyển trường nghĩa là một hiện tượng khá đặc biệt trong sử dụng ngôn
    ngữ. Nó tạo ra những giá trị biểu đạt mới cho từ, theo đó tạo ra nhiều liên tưởng bất
    ngờ về ý nghĩa cho câu và văn bản. Hiện tượng này khi xuất hiện một cách tập trung
    và có chủ ý sẽ khiến cho cuộc giao tiếp ngôn ngữ mang một sắc thái khác lạ. Để
    thoát khỏi quán tính của thói quen trong giao tiếp ngôn ngữ người ta có thể có nhiều
    lựa chọn khác nhau. Việc sử dụng từ vựng chuyển đổi trường nghĩa là một trong
    những cách thức độc đáo và hiệu quả. Lời nói thường ngày mà dùng đến phương
    thức này nhiều khi làm tổn hại đến tính phổ thông (vốn là một thuộc tính cơ bản của
    tín hiệu ngôn ngữ). Tuy nhiên, trong sáng tác nghệ thuật, việc dùng từ vựng theo
    phương thức chuyển đổi trường nghĩa lại được các nhà nghệ sĩ ngôn từ đặc biệt ưa
    dùng. Vì vậy, có thể nói, chuyển đổi trường nghĩa từ vựng có thể được coi là một
    biện pháp tu từ hiệu quả trong sáng tác văn chương.
    1.2. Xuân Diệu là một tác gia lớn trong Văn học Việt Nam hiện đại. Bằng
    phong cách rất riêng, ông đã để lại cho đời một thành tựu nghệ thuật đồ sộ với nhiều
    tác phẩm thơ ca đặc sắc. Nói về Xuân Diệu, người ta thường nhắc đến thơ ông với
    những cách tân độc đáo, thú vị, bất ngờ và lạ lẫm. Trong những “cái mới” mà Xuân
    Diệu đưa đến cho nền thi ca Việt Nam hiện đại, có lẽ, ấn tượng nhất là những cách
    tân ngôn ngữ. Ở thơ ông, ta thấy một số lượng lớn từ vựng được sử dụng trong bối
    cảnh chuyển đổi ý nghĩa. Sự chuyển đổi trường không những đã khiến cho thơ ông
    thoát ra ngoài quy luật dùng từ ngữ sáo mòn mà còn giúp cho những tác phẩm thơ
    vượt lên trên các giới hạn của phong trào thơ đương đại. Trong sáng tác thi ca,
    Xuân Diệu đã gắn kết các từ ngữ khác trường nghĩa lại với nhau, tạo ra rất nhiều
    kiểu chuyển nghĩa, chuyển trường của từ. Sự chuyển trường ấy tạo nên những kết
    hợp phi lôgic thông thường, làm cho người ta ngỡ ngàng từ câu chữ cho đến ý nghĩa 2
    1.3. Giá trị của thơ Xuân Diệu có thể được nhìn nhận từ các góc độ khác
    nhau. Nghiên cứu thơ ông từ hiện tượng chuyển trường nghĩa cũng là một hướng đi
    cần thiết và đầy sức hút.
    Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Hiện tượng chuyển trường nghĩa
    trong thơ Xuân Diệu” làm luận văn của mình.
    2. Lịch sử vấn đề
    2.1. Vấn đề trường nghĩa
    Lí thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm
    từ rất sớm, có thể kể đến các tác giả như F. De. Saussure, J.Trier, L. Weisgerber .
    Các tác giả này đã đưa ra các quan niệm, các khía cạnh khác nhau về trường nghĩa
    xuất phát từ những góc nhìn riêng của mình.
    Ở Việt Nam cũng có không ít nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu trường
    nghĩa từ vựng. Trong đó, tiêu biểu là GS. Đỗ Hữu Châu, PGS. Đỗ Việt Hùng. Các
    tác giả đã cụ thể hóa trường từ vựng - ngữ nghĩa bằng cứ liệu tiếng Việt trong các
    chuyên luận và giáo trình. Đây chính là cơ sở lí thuyết và thực tiễn cho vấn đề mà
    Đề tài đặt ra.
    2.1. Vấn đề hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu
    Ở nước ta, đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về thơ Xuân
    Diệu. Hầu hết chúng đề cập đến những đặc trưng về mặt nội dung và nghệ thuật của
    thơ ông, khẳng định tài năng và phong cách của ông. Tuy nhiên, từ một góc nhìn
    hẹp, chưa có công trình, bài viết nào đề cập đến hiện tượng chuyển trường nghĩa
    trong thơ Xuân Diệu.
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Thứ nhất, xác nhận các vấn đề
    thuộc về cách thức và đặc điểm của hiện tượng trường nghĩa và chuyển di trường
    nghĩa của từ; Thứ hai, tập trung khảo sát hiện tượng sử dụng từ ngữ chuyển trường
    nghĩa ở tần số cao và hiện tượng chuyển di trường nghĩa của từ trong thơ Xuân
    Diệu. Trong đó, chúng tôi giới hạn việc tìm hiểu sự chuyển trường nghĩa trên bình
    diện ngữ nghĩa học và dụng học. 3
    4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
    4.1. Mục đích nghiên cứu
    Mục đích của đề tài là tìm hiểu sâu hơn về những đóng góp của Xuân Diệu
    trong sáng tạo ngôn ngữ thơ ở một góc hẹp: sử dụng trường nghĩa từ vựng và
    chuyển di trường nghĩa từ vựng (từ lí thuyết ngữ nghĩa và ngữ dụng). Qua đó, đề tài
    góp thêm một sự lí giải về giá trị của thơ Xuân Diệu từ góc nhìn của ngôn ngữ học.
    4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
    - Xác định cơ sở lý luận của đề tài
    - Thống kê các từ ngữ trong thơ Xuân Diệu theo trường nghĩa để xác định
    các trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
    - Khảo sát các kết hợp cụ thể để tìm ra các hiện tượng chuyển trường nghĩa.
    - Qua phân tích các kết hợp được tạo ra do hiện tượng chuyển nghĩa của từ,
    rút ra những giá trị biểu đạt nhất định và đặc điểm phong cách thơ Xuân Diệu.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng chủ yếu hai phương
    pháp sau:
    - Phương pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm chuyển trường của từ và cấu tạo
    của các kết hợp được tạo ra do sự chuyển trường ấy.
    - Phương pháp phân tích (phân tích ngữ nghĩa và phân tích ngữ cảnh) để làm
    rõ giá trị biểu hiện của từ trong từng trường hợp chuyển trường cụ thể, đồng thời chỉ
    ra giá trị của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong việc thể hiện nội dung và nghệ
    thuật của thơ Xuân Diệu.
    Ngoài hai phương pháp trên, luận văn còn sử dụng thủ pháp thống kê,
    phân loại.
    + Thủ pháp thống kê dùng để tổng hợp ngữ liệu, qua đó, nắm được một cách
    khái quát về hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
    + Thủ pháp phân loại dùng để phân loại ngữ liệu và xác định các đặc điểm
    của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu. 4
    6. Đóng góp của luận văn
    6.1. Từ lý thuyết trường nghĩa Luận văn đặt ra nhiệm vụ xác định sự chuyển
    trường nghĩa trong thơ Xuân Diệu.
    6.2. Làm rõ vai trò của việc sử dụng phương thức chuyển di trường nghĩa từ
    vựng trong sáng tác thi ca của Xuân Diệu, từ đó khẳng định những đóng góp của
    ông về sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật.
    6.3. Góp phần làm sáng tỏ thêm lý thuyết chuyển trường nghĩa trong sáng tạo
    ngôn ngữ nghệ thuật.
    7. Cấu trúc của luận văn
    Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và
    phần Kết luận, nội dung Luận văn được triển khai trong 3 chương:
    Chương 1: Cơ sở lí luận
    Chương 2: Các trường nghĩa và hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ
    Xuân Diệu
    Chương 3: Giá trị biểu đạt của hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ
    Xuân Diệu
    Sau cùng là phần Phụ lục và Tài liệu tham khảo 5
    Chương 1
    CƠ SỞ LÍ LUẬN
    1.1. Về khái niệm trường nghĩa
    Trường nghĩa còn được gọi là trường ngữ nghĩa, trường từ vựng ngữ nghĩa
    (semantic filed, lexcal filed). Lí thuyết về các trường được các nhà ngôn ngữ Đức
    và Thuỵ Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX. Lí thuyết này bắt
    nguồn từ những tư tưởng về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ trong ngôn ngữ của
    W. Humboldt, M. Pokrovxkij, Meyer. Nhưng tiền đề thúc đẩy một cách quyết định
    sự hình thành nên lí thuyết về các trường là những nguyên lí của F. De Saussure,
    đặc biệt là luận điểm “giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu tố xung
    quanh quy định” [6, 243] và “chính phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một
    khối để phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng” [6, 244] của ông.
    Nói đến lí thuyết về trường nghĩa, ta phải nhắc đến tên tuổi của hai nhà ngôn
    ngữ người Đức là J. Trier và L. Weisgerber. Với J. Trier (theo đánh giá của S.
    Ullmann), lịch sử ngữ nghĩa học đã mở ra một giai đoạn mới. Ông là người đầu tiên
    đưa ra thuật ngữ “trường” vào ngôn ngữ học và đã thử áp dụng quan điểm cấu trúc
    vào lĩnh vực từ vựng ngữ nghĩa. J. Trier cho rằng, trong ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại
    trong một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các từ khác trong trường quyết
    định. Còn L. Weisgerber, ông lại có một quan điểm rất đáng chú ý về các trường –
    theo ông, cần phải tính đến các “góc nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ
    cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá một lĩnh vực nào đó của cuộc sống.
    Các trường kiểu của J. Trier và L. Weisgerber là những trường có tính chất
    đối vị, gọi tắt là trường trực tuyến (dọc).
    Ngoài hai tác giả trên, trường trực tuyến cũng được nhiều nhà ngôn ngữ khác
    đề cập đến. Có thể kể đến các tác giả như Cazarès, P. M Roget, R. Hallig, W. Von
    Warburg, W. P. Zaleskij, Duchacek, H. Husgen, K. Reuning.
    Khác với các nhà nghiên cứu trên, W. Porzig lại xây dựng quan niệm về các
    trường tuyến tính hay trường ngang. Theo ông, trường là những cặp từ có quan hệ 6
    kiểu như “gehen” – “fuber” (“đi” – “chân”), “greifen” – “hand” (“cầm” – “tay”),
    “sechen” – “auge” (“nhìn” – “mắt”) Đây không phải là những quan hệ chung
    nhất, những quan hệ ngữ nghĩa tạo nên “các trường cơ bản của ý nghĩa”. Trung tâm
    của “các trường cơ bản của ý nghĩa” là các động từ và tính từ vì chúng thường đảm
    nhiệm chức năng vị ngữ trong câu, do đó chúng thường ít nghĩa hơn các danh từ.
    Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu
    như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Đỗ
    Việt Hùng Trong đó, Đỗ Hữu Châu là người đi đầu trong việc đưa ra lí thuyết về
    trường nghĩa cũng như những phạm trù ngôn ngữ liên quan đến trường nghĩa. Ông
    đã vận dụng lí thuyết về trường nghĩa của các tác giả nước ngoài để xây dựng
    những quan niệm của mình về trường nghĩa. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Mỗi tiểu hệ
    thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là tập hợp những từ đồng nhất
    với nhau về ngữ nghĩa [8, 171]. Quan điểm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho
    việc phân lập trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các quan
    niệm về trường nghĩa của các tác nhà Việt ngữ khác sau ông.
    Luận văn của chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu Châu
    làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
    1.2. Phân loại trường nghĩa
    Dựa vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ là quan hệ dọc (quan hệ trực
    tuyến, quan hệ hình) và quan hệ ngang (quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính,
    quan hệ ngữ đoạn), Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng Việt thành các loại khác
    nhau: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (hai trường nghĩa dựa vào quan
    hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào quan hệ ngang) và trường nghĩa liên
    tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ dọc và quan hệ ngang).
    1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
    Trường nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
    vật” [8; 172]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: cổ tay, bàn tay, cánh tay,
    ngón tay, hoa tay, vân tay, búp măng, dùi đục, cầm, nắm, xé Đây là các đơn vị từ
    có cùng phạm vi biểu vật tay. 7
    Mỗi một trường nghĩa biểu vật thường có từ trung tâm là danh từ. Danh từ này
    có tính khái quát cao, gần như là tên gọi của các phạm trù biểu vật, như người, động
    vật, thực vật, vật thể, chất liệu Các danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa có
    tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là những nét nghĩa cụ thể, thu hẹp
    ý nghĩa của từ. Dựa vào danh từ trung tâm, người ta xác lập trường nghĩa biểu vật.
    Ở ví dụ trường biểu vật về tay trên, dựa vào danh từ tay, ta tập hợp được rất nhiều
    từ về tay – nằm trong trường nghĩa tay.
    Các trường nghĩa biểu vật lớn có thể phân chia thành các trường nghĩa biểu
    vật nhỏ. Đến lượt mình, các trường nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể phân chia
    thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về
    tay có thể chia thành các trường nhỏ: trường biểu vật về bàn tay (gồm: ngón tay,
    vân tay, hoa tay, đốt ngón tay, chỉ tay, mu bàn tay ), trường biểu vật về cánh tay
    (gồm: cổ tay, xương cánh tay, cùi chỏ )
    Số lượng từ ngữ và cách tổ chức của các trường nghĩa biểu vật rất khác nhau.
    Sự khác nhau này diễn ra giữa các trường lớn với nhau và giữa các trường nhỏ trong
    một trường lớn. Nếu so sánh các trường cùng một tên gọi trong các ngôn ngữ với
    nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa.
    Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường nhỏ) là
    một “miền” của trường, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác nhau. Có
    những miền trống - tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhưng không trống ở
    ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này nhưng lại thấp trong ngôn
    ngữ kia.
    Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều trường biểu
    vật khác nhau, hệ quả là các trường nghĩa biểu vật có thể “giao thoa”, “thẩm thấu”.
    Xét trường biểu vật về người và trường biểu vật về động vật, ta sẽ thấy rất rõ điều
    này. Trường nghĩa người sẽ gồm các từ: đầu, tóc, mắt, cổ, bụng, tay, chân, mũi,
    miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, máu, xương, thịt, lông, ăn, uống, đi, chạy,
    nhảy, khóc, cười, nói, hát, hét, ngủ, nằm, to, nhỏ Trường nghĩa động vật sẽ gồm
    các từ: đầu, đuôi, sừng, gạc, cổ, bụng, mắt, chân, mũi, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ 8
    dày, da, máu, xương, thịt, lông, ăn, uống, đi, chạy, nhảy, hót, hí, ngủ, nằm, to, nhỏ
    Hầu hết các từ nằm trong trường động vật đều nằm trong trường người, ví dụ các
    từ: đầu, cổ, bụng, mắt, chân, mũi, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, ăn, uống, đi,
    chạy, nhảy Ta nói trường người và trường động vật giao thoa, thẩm thấu vào
    nhau. Mức độ giao thoa của các trường tỉ lệ thuận với số lượng từ chung giữa các
    trường với nhau.
    Quan hệ của các từ ngữ đối với một trường nghĩa biểu vật không giống nhau.
    Có những từ điển hình cho trường được gọi là các từ hướng tâm, có những từ không
    điển hình cho trường được gọi là các từ hướng biên. Từ hướng tâm gắn rất chặt với
    trường làm thành cái lõi trung tâm quy định những đặc trưng ngữ nghĩa của trường.
    Từ hướng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi lúc một đi xa khỏi lõi, liên hệ với trường
    mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trường người và trường động vật trên, các từ hướng tâm là
    các từ chỉ có ở trường này mà không có ở trường kia, từ hướng tâm của trường
    người như khóc, cười, buồn, hát , từ hướng tâm của động vật là các từ hí, hót,
    đuôi Từ hướng biên của chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trường như đầu,
    chân, mắt, mũi, ruột, da, dạ, dày, xương, máu, chạy, nằm, uống, ăn, đi,
    1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm
    Trường nghĩa biểu niệm là “một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu
    niệm [8,178]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo) (thay thế hoặc
    tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đục, khoan, lưới, nơm,
    dao, kiếm
    Cũng như các trường nghĩa biểu vật, các trường biểu niệm lớn có thể phân
    chia thành các trường nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với những mật
    độ khác nhau.
    Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều trường nghĩa
    biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống như trường nghĩa biểu vật, các trường
    nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và cũng có lõi trung tâm
    với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận trung tâm, những từ ở lớp
    ngoại vi. 9
    1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính
    Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để tạo ra
    các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ. Chẳng hạn,
    trường nghĩa tuyến tính của từ tay là búp măng, mềm, ấm, lạnh nắm, cầm, khoác
    Để xác lập trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất
    cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp
    nhận được trong ngôn ngữ.
    Cùng với các trường nghĩa dọc (trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu
    niệm), các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ và cấu trúc
    ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những đặc điểm hoạt
    động của từ.
    1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng
    Trường nghĩa liên tưởng là tập hợp từ có chung một nét nghĩa ấn tượng tâm lí
    được một từ gợi ra. Chẳng hạn, trường nghĩa liên tưởng của từ xanh gồm các đơn vị
    từ vựng: lục, lam, xanh lơ, cây cối, núi rừng, đồng bằng, bầu trời, sự sống, tuổi trẻ,
    người lính, hòa bình .
    Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hoá, cố định bằng từ các ý
    nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
    Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong
    trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những từ có quan hệ
    cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Song, trong trường liên
    tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới do xuất hiện đồng thời với từ trung
    tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này
    khiến cho các trường liên tưởng có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân.
    1.3. Sự dịch chuyển trường nghĩa
    1.3.1. Khái niệm sự chuyển trường nghĩa
    Sự chuyển trường nghĩa là hiện tượng “một từ ngữ thuộc một trường ý niệm
    này được chuyển sang dùng cho các sự vật thuộc một trường ý niệm khác” [3, 68] 10
    Do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng và phức tạp của con người, từ (đơn
    hoặc phức) lúc mới xuất hiện chỉ có một nghĩa biểu vật nhưng sau khi được sử dụng
    một thời gian nó có thêm nhiều nghĩa biểu vật mới. Đó là sự chuyển biến ý nghĩa
    biểu vật của từ. Khi nghĩa biểu vật của từ thay đổi thì nghĩa biểu niệm của từ cũng
    có nhiều khả năng thay đổi. Từ đó, nghĩa biểu thái của từ cũng có thể thay đổi theo.
    Sự chuyển nghĩa trên của từ chính là cơ sở của sự chuyển trường nghĩa của từ.
    Không phải bất cứ hiện tượng chuyển nghĩa nào cũng dẫn đến sự chuyển trường
    nghĩa của từ, nhưng có thể khẳng định rằng, sự chuyển trường nghĩa bắt đầu từ sự
    chuyển nghĩa của từ. Bởi vì, từ chuyển nghĩa - nội dung biểu thị của từ thay đổi - thì
    từ cũng chuyển sang trường nghĩa mới tương ứng với nội dung biểu thị mới của nó.
    Chẳng hạn từ mũi là từ có nhiều nghĩa, mỗi lần chuyển biến ý nghĩa, từ lại
    chuyển sang một trường nghĩa khác.
    1. Bộ phận của cơ quan hô hấp (mũi người, mũi mèo )
    → Từ thuộc trường con người hoặc trường động vật
    2. Bộ phận nhọn của vũ khí (mũi dao, mũi súng )
    → Từ thuộc trường đồ vật
    3. Phần trước của tàu thuyền (mũi tàu, mũi thuyền )
    → Từ thuộc trường phương tiện giao thông
    4. Phần đất nhô ra ngoài biển (mũi đất, mũi Cà Mau )
    → Từ thuộc trường đất đai
    5. Đơn vị quân đội (mũi quân bên trái, mũi quân tiên phong )
    → Từ thuộc trường quân sự
    Khi các từ ngữ chuyển từ trường nghĩa này sang trường nghĩa khác, chúng
    mang theo những đặc điểm vốn có của nó ở trường nghĩa ban đầu. Chẳng hạn, ở ví
    dụ từ mũi trên, nét nghĩa về sự vật “nhọn, nhô ra trước hết so với cái toàn thể” của
    từ mũi trong trường đầu tiên đã chuyển vào nghĩa của các từ thuộc các trường nghĩa
    còn lại. 11
    1.3.2. Các phương thức chuyển trường nghĩa
    Như đã trình bày ở trên, hiện tượng chuyển trường nghĩa bắt đầu từ sự chuyển
    nghĩa của từ. Bởi thế, phương thức chuyển trường nghĩa cũng chính là phương thức
    chuyển nghĩa của từ.
    Hai phương thức chuyển trường (chuyển nghĩa) phổ biến của từ trong tất cả
    ngôn ngữ trên thế giới là ẩn dụ và hoán dụ. Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ và
    hoán dụ được hiểu như sau:
    Cho A là một hình thức ngữ âm, x và y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là
    tên gọi của x (tức x là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương
    thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau. Còn
    hoán dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x
    và y đi đôi với nhau trong thực tế.
    Trong trường hợp ẩn dụ, các sự vật được gọi tên, tức x và y, không có liên hệ
    khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác hẳn nhau. Sự chuyển tên
    gọi diễn ra tuỳ thuộc vào nhận thức của con người về sự giống nhau giữa chúng.
    Trái lại, trong trường hợp hoán dụ, mối liên hệ đi đôi với nhau giữa x và y là có
    thật, không tuỳ thuộc vào nhận thức của con người. Cho nên các hoán dụ có tính
    khách quan hơn các ẩn dụ.
    Dựa vào các tiêu chí khác nhau, ẩn dụ và hoán dụ được chia thành nhiều tiểu
    loại nhỏ:
    *Các loại ẩn dụ:
    Dựa vào tính cụ thể/ trừu tượng của x và y, ẩn dụ được chia thành ẩn dụ cụ thể
    - cụ thể (x và y đều cụ thể, ví dụ: chân núi, chân bàn, cổ chai); ẩn dụ cụ thể - trừu
    tượng (x cụ thể còn y trừu tượng, ví dụ: suy nghĩ già, trình độ lùn)
    Dựa vào các nét nghĩa phạm trù, ẩn dụ được chia thành:
    Ẩn dụ hình thức: Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật,
    hiện tượng. Ví dụ: răng người – răng lược, răng bừa, râu người – râu bắp.
    Ẩn dụ vị trí: Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về vị trí giữa các sự vật, hiện
    tượng. Ví dụ: gốc cây – gốc vấn đề, đầu người – đầu làng 12
    Ẩn dụ cách thức: Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa
    các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: cắt giấy – cắt hộ khẩu, vặn ốc – vặn nhau.
    Ẩn dụ chức năng: Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về chức năng giữa các sự
    vật, hiện tượng. Ví dụ: cửa nhà – cửa sông, cửa rừng.
    Ẩn dụ kết quả (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác): Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về
    kết quả tác động của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: chanh chua – giọng nói chua,
    căn phòng sáng sủa – tương lai sáng sủa.
    *Các loại hoán dụ:
    Hoán dụ dựa vào quan hệ bộ phận – toàn thể. Ví dụ: nhà có năm miệng ăn
    (dùng từ miệng chỉ bộ phận để gọi người – toàn thể), đêm biểu diễn (dùng từ đêm–
    chỉ toàn bộ để chỉ một phần của đêm, thường vào buổi tối).
    Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa vật chứa và vật bị chứa. Ví dụ: uống năm chai
    (dùng từ chai để chỉ cái đựng trong chai – rượu, bia, nước ), cả làng tỉnh dậy giữa
    đêm khuya (dùng từ làng để chỉ những người trong làng)
    Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa sự vật, hiện tượng, hoạt động với các đặc
    điểm của chúng. Các đặc điểm có thể là: màu sắc – sự vật (hai đen – dùng đen để
    chỉ cà phê), vị - sự vật (có chút cay cay – dùng cay để chỉ rượu), nhãn mác – sự vật
    (hai Sài Gòn – dùng “Sài Gòn” để chỉ bia), chất liệu – sự vật (mua cái gương –
    gương là chất liệu của dụng cụ dùng để soi), âm thanh – hành động (bịch, bốp –
    bịch là âm thanh của hành động ngã, bốp là âm thanh của hành động đấm)
    1.3.3. Tác dụng của sự chuyển trường nghĩa
    Tác dụng đầu tiên của hiện tượng chuyển trường nghĩa đối với ngôn ngữ là
    làm giàu vốn từ vựng. Khi một từ chuyển trường nó biến thành từ đa nghĩa, từ vẫn
    giữ nguyên hình thức ngữ âm cũ nhưng lại mang một nội dung mới hay nghĩa mới,
    nội dung mới này luôn có quan hệ tương sinh với nội dung cũ (nghĩa cũ, nghĩa gốc)
    của từ. Từ càng chuyển qua nhiều trường nghĩa thì càng mang nhiều nghĩa mới - nội
    dung biểu đạt của nó càng phong phú. Chẳng hạn, từ tóc vốn thuộc về trường con
    người, biểu hiện sợi lông mọc trên đầu người; khi chuyển qua trường sự vật nó biểu
    hiện dây kim loại (vônfram) trong bóng đèn tròn (tóc bóng đèn); khi chuyển qua
    trường thực vật, nó biểu hiện bộ phận của cây như cành, lá (Rặng liễu đìu hiu đúng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng – Xuân Diệu; Quê hương tôi có con
    sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre – Tế Hanh).
    Sự chuyển trường nghĩa của từ không chỉ có tác dụng làm giàu cho vốn từ
    vựng, đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người mà còn góp phần làm tăng khả năng
    diễn đạt, tăng sức biểu cảm của ngôn từ.
    Khi từ chuyển trường nghĩa, ngoài những giá trị biểu đạt mới xuất hiện ở
    trường nghĩa mới, từ còn giữ được những ấn tượng ngữ nghĩa vốn có ở trường
    nghĩa cũ. Đặc tính này làm cho giá trị biểu đạt của từ càng phong phú. Chẳng hạn,
    giá trị biểu đạt của “bão” trong cơn bão nhà ở bài thơ sau:
    Gãy lái đứt neo, tàu thoát qua rốn bão
    Anh nguyên lành trở về căn phòng em
    Bỗng gặp cơn bão nhà không triều, không sóng
    Chiến hạm đời anh lặng lẽ cắt neo
    Chìm
    (Bão – Nguyễn Vũ Tiềm)
    Từ bão đã chuyển từ trường nghĩa chỉ hiện tượng khí tượng sang trường nghĩa
    người. Ngoài nét nghĩa của trường nghĩa mới chỉ sự tan vỡ của gia đình, nó còn
    mang nét nghĩa của trường nghĩa cũ chỉ “sự tàn phá, tan hoang, đổ nát.” Ở đây, nỗi
    đau đớn được biểu đạt một cách mạnh mẽ mà không một từ ngữ chỉ sự đau đớn nào
    khác có thể diễn tả được.
    1.4. Tiểu kết
    Quan niệm về trường nghĩa của các nhà ngôn ngữ có thể không giống nhau,
    tuy nhiên có thể hiểu Trường nghĩa là một tập hợp bao gồm các từ có chung với
    nhau ít nhất là một nét nghĩa. Tiêu chí để xác lập trường nghĩa là nghĩa của từ. Việc
    phân lập hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ thành các trường nhỏ dù có dựa vào
    các tiêu chí nào chăng nữa cũng không thể không bắt đầu từ tiêu chí ngữ nghĩa ấy.
    Hiện tượng chuyển đổi trường nghĩa từ vựng là hiện tượng phổ biến trong
    sáng tạo ngôn ngữ thơ. Nó không chỉ tuân theo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ mà còn
    tuân theo quy luật sáng tạo của con người. Nghiên cứu nó không chỉ giúp cho ta
    thấy được cái hay của ngôn ngữ mà còn thấy được tài năng, phong cách của người
    sử dụng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...