Thạc Sĩ Hiện trạng và giá trị sử dụng tài nguyên của một số loài cây thuốc ở Vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Ph

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [h=1][/h][TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD]

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    ĐẶT VẤN ĐỀCác Vườn quốc gia (VQG) và các Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) nói chung là những trung tâm đa dạng sinh học với các hệ sinh thái và hệ động thực vật phong phú và tiêu biểu cho vùng hệ sinh thái. Vì vậy mục tiêu chính của công tác bảo tồn trong mỗi khu Vườn quốc gia là phải bảo vệ tốt hệ sinh thái rừng. Nhưng việc “đóng cửa rừng” đã gây ra rất nhiều khó khăn đối với cuộc sống của người dân vùng đệm. Những người đã sống gắn bó với rừng từ hàng ngàn năm nay và nguồn sống chủ yếu của họ cũng dựa vào tài nguyên của rừng. Vì vậy, không thể tách rời người dân với rừng được, nhưng việc đảm bảo người dân sống chung với rừng và không phá rừng là một bài toán khó. Một trong những giải pháp vừa để bảo vệ được rừng vừa nâng cao đời sống cho người dân vùng đệm là hướng họ vào việc gây trồng cây lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là trồng cây thuốc vì:
    Cây thuốc là cây có giá trị kinh tế cao và có thị trường rộng.
    Cây thuốc có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân vùng đệm.
    Cây thuốc và tri thức sử dụng cây thuốc là một phần văn hoá của người dân tộc thiểu số.
    Để tiến hành được hoạt động vận động người dân tham gia vào công tác bảo tồn loại tài nguyên này, yêu cầu trước mắt phải có được những thông tin về hiện trạng khai thác và giá trị của các loại sản phẩm mà người dân thu hái.
    Trong nguồn lâm sản ngoài gỗ ở VQG Tam Đảo, cây thuốc chiếm một vị trí quan trọng về thành phần loài cũng như về giá trị sử dụng và kinh tế. Trong số đó, trên 80% tổng số loài thuốc là mọc tự nhiên, chủ yếu trong các quần hệ rừng. Rừng cũng là nơi tập trung hầu hết các cây thuốc quí có giá trị sử dụng và kinh tế cao, nguyên nhân khác là nguồn gốc thuốc mọc tự nhiên ở VQG Tam Đảo đã bị giảm sút nghiêm trọng.
    Vì vậy, bảo vệ tài nguyên cây thuốc mọc tự nhiên ở rừng đã trở thành yêu cầu cấp bách, nhằm phục vụ cho các mục tiêu kinh tế – xã hội hiện tại và tương lai.
    Xuất phát từ vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiện trạng và giá trị sử dụng tài nguyên của một số loài cây thuốc ở Vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc. Cơ sở cho bảo tồn và phát triển”.
    [h=1][/h][TABLE="align: left"]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD]

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Chương 1[h=1]TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU[/h][h=1]1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu cây thuốc trên thế giới[/h]Việc sử dụng cây thuốc gắn liền với sự phát triển của nhân loại. Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, con người đã biết sử dụng các loài thực vật để duy trì cuộc sống. Trong quá trình đó, người ta đã phát hiện các loài thực vật có khả năng phòng và chữa bệnh. Dần dần các kinh nghiệm được tích luỹ, phổ biến . Đó là cơ sở quá trình hình thành và sử dụng cây thuốc trong y học truyền thống của các dân tộc. Càng ngày tri thức của nhân loại càng được nâng cao, nhất là khoa học đã phát triển, việc sử dụng cây thuốc càng được mở rộng hơn và mang lại hiệu quả to lớn trong việc bảo vệ sức khoẻ con người.
    Và từ đó, mỗi châu lục, mỗi dân tộc hình thành nên một nền y học cổ truyền mang đặc trưng riêng.
    Nghiên cứu lịch sử các cây làm thuốc của các dân tộc, vùng lãnh thổ được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra nhiều bằng chứng xác thực. Trong cuốn “Lịch sử liên đại cây cỏ” ấn hành năm 1878, Charles Pikering đã chỉ rõ: Ngay từ năm 4271 trước Công nguyên (TCN) người dân khu vực Trung Cận Đông đã sử dụng nhiều loài cây để làm lương thực và chữa bệnh.
    Dựa trên các bằng chứng khảo cổ, Borisova B.(1960) chỉ ra rằng, vào khoảng 5000 năm TCN, cây thuốc đã được sử dụng rộng rãi và vì vậy là mục tiêu chiếm đoạt (cùng với phụ nữ, các cây lương thực, cây có hoa đẹp) trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc. Như vậy, tầm quan trọng của các cây làm thuốc được loài người nhận thức rất sớm; việc thu thập, nhập nội các giống cây thuốc quý được thực hiện ngay từ thời cổ đại bởi các chiến binh.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD]

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Châu Úc được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh cổ xưa nhất thế giới. Người ta cho rằng, các thổ dân châu Úc đã định cư ở đây từ hơn 60000 năm về trước và hình thành nên những kiến thức thực tiễn về các loài cây thuốc bản xứ. Nhiều loài trong số này như cây Bạch đàn xanh (Eucalyptus globulus) duy nhất chỉ có ở châu Úc, vốn được sử dụng rất hữu hiệu trong việc chữa bệnh. Tuy nhiên, phần lớn kiến thức về dược thảo của thổ dân đã bị mất đi khi người châu Âu đến định cư. Ngày nay, đa phần các dược thảo ở châu Úc bắt nguồn từ phương Tây, Ấn Độ, Trung Quốc và các nước vùng ven Thái Bình Dương.
    Dược thảo châu Âu rất đa dạng và phần lớn dựa trên nền tảng của y học truyền thống cổ điển. Người đầu tiên phải kể đến là Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Ông đã viết hàng trăm cuốn sách và đã được áp dụng trong ngành Y ở châu Âu hơn 1500 năm. Ở thế kỷ I SCN, một thầy thuốc Hy Lạp tên là Dioscorides đã viết một cuốn sách dược thảo có tên “De material Medica”. Quyển sách này bao gồm 600 loại thảo mộc, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến y học phương Tây và là sách tham khảo chính được dùng ở châu Âu cho đến thế kỷ XVII. Cuốn sách còn được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Tiếng Anh cổ, tiếng Ba Tư và tiếng Hebrew. Vào thời Trung Cổ, học thuyết “Dấu hiệu” khẳng định có một sự kết nối giữa vẻ bề ngoài của một loài cây “Dấu hiệu của thần thánh” và công dụng y học của chúng. Chẳng hạn, những chiếc lá lốm đốm của cây Cỏ phổi (Pulmonaria officinalis) giống như các mô của phổi, chữa rất hiệu quả các bệnh về phổi.
    Ở châu Phi, sự đa dạng của ngành dược thảo cổ truyền lớn hơn bất kỳ châu lục nào khác. Việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng cây thuốc ở châu Phi đã có từ thời xa xưa. Những bản viết tay đã có từ thời Ai Cập cổ đại (1950 TCN) đã liệt kê hàng chục loài cây thuốc và công dụng của chúng. Trong bản giấy cói của dân tộc Ebers (khoảng 1500 TCN) ghi lại hơn 870 toa thuốc và các công thức, 700 loài dược thảo và các chứng bệnh, từ bệnh phổi cho đến các vết thương do cá Sấu cắn. Việc buôn bán dược thảo giữa các vùng Trung Đông, Ấn Độ và Đông Bắc châu Phi đã có ít nhất từ 3000 năm trước. Từ thế kỷ V đến thế kỷ XIII SCN, các thầy thuốc Ả Rập là những người có công đầu trong sự tiến bộ của ngành y. Vào giữa thế kỷ XIII, nhà thực vật học Ibn El Beitar đã xuất bản cuốn “Các vấn đề y khoa” thống kê chủng loại cây thuốc ở Bắc Phi.
    Nói đến dược thảo châu Á không thể không nhắc đến hai quốc gia có nền y học cổ truyền lâu đời là Trung Quốc và Ấn Độ. Lịch sử nền Y học Trung Quốc đầu thế kỷ thứ II, người ta đã biết dùng thuốc là các loài cây cỏ để chữa bệnh như: Sử dụng nước cây Chè (Thea sinensis) đặc để rửa vết thương và tắm ghẻ. Trong cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản 1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: Rễ gấc (Momordoca cochinchinensis) chữa nọc độc, viêm tuyến hạch, Hạt gấc trị sưng tấy, đau khớp, sốt rét, vết thương tụ máu,
    Văn minh của người Ấn Độ cổ đại đã phát triển cách đây 5000 năm dọc theo bờ sông Indus ở miền Nam Ấn Độ. Trong bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1500 TCN, chứa đựng những kiến thức phong phú về dược thảo thời kỳ đó. Trong đó, nhiều loài cây được xem là những “cây thiêng” dành cho vị thần đặc biệt, chẳng hạn như cây Trái nấm (Aegle marmelos) là cây dành cho thánh thần của người Hindu, thánh Lakshmi (Thánh mang lại sự giàu có và may mắn), thánh Samhita (Vị thánh của sức khỏe) và cây được trồng gần các đền thờ.
    Ngoài ra, Y học dân tộc Bungari “Đất nước của hoa hồng” đã coi Hoa hồng là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta dùng cả hoa, lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và bệnh phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh rằng trong cánh Hoa hồng có một lượng tanin, glycosid, tinh dầu đáng kể. Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh.
    Chữa bệnh bằng cây cỏ đang dần trở thành xu hướng của thế giới. Trong khoảng 30 năm gần đây, Viện Ung thư Hoa Kỳ (CIN) đã điều tra nghiên cứu sàng lọc hơn 40000 mẫu cây thuốc, phát hiện hàng trăm cây thuốc có khả năng chữa bệnh ung thư, 25% đơn thuốc ở Mỹ sử dụng chế phẩm có dược tính mạnh được điều chế từ một loại Hoa hồng (Cantharanthus roseus). Đặc biệt ở Madagasca, người ta dùng cây này để chữa bệnh máu trắng cho trẻ em và rất hiệu quả, đã làm tăng tỷ lệ sống của trẻ em từ 10 lên đến 90%.
    Nhận thức rõ giá trị chữa bệnh của các cây thuốc chính là hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học chứa trong nguyên liệu, vì vậy nghiên cứu cây thuốc theo các nhóm hợp chất được tiến hành và đã thu được nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này đòi hỏi kinh phí lớn, trang thiết bị hiện đại và đội ngũ chuyên gia có trình độ cao. Do vậy, đây là các nghiên cứu được triển khai ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển.
    Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới - WHO năm 1985, trong số 250000 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao đã biết, có gần 20000 loài thực vật được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến thuốc. Trong đó, ở Ấn Độ có khoảng 6000 loài, Trung Quốc trên 5000 loài, riêng về thực vật có hoa ở một vài nước Đông Nam Á đã có tới 2000 loài là cây thuốc, vùng nhiệt đới châu Mỹ hơn 1900 loài. Cũng theo WHO thì mức độ sử dụng cây thuốc ngày càng cao, ở các quốc gia đang phát triển có tới 80% dân số sử dụng thuốc dân tộc. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, lại có nền y học dân tộc phát triển, nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc. Điều này chứng tỏ đối với các nước công nghiệp phát triển thì việc sử dụng cây thuốc phục vụ cho nền y học cổ truyền cũng phát triển mạnh. Cây thuốc là loài cây kinh tế, nó cung cấp nhiều loại thuốc dân tộc và thuốc hiện đại trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là con người.
    Để phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khoẻ con người, cho sự phát triển của xã hội và để chống lại các bệnh nan y thì cần phải có sự kết hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại và y học cổ truyền của các dân tộc. Chính từ những kinh nghiệm của y học cổ truyền đã giúp cho nhân loại khám phá những loại thuốc có ích cho tương lai.
    [h=1]1.2. Sơ lược tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Việt Nam[/h]Việt Nam có tổng diện tích là 330541km, trải dài suốt bờ biển Đông Nam lục địa châu Á trên 15 vĩ độ. Ba phần tư lãnh thổ là đồi núi đồng bằng. Đồng bằng châu thổ Miền Bắc và Miền Nam sang Mê Công nối nhau ở miền trung ven biển, nhiều núi và hẹp, do nằm ở mỏm chóp Đông Nam lục địa Âu- Á nên lãnh thổ Việt Nam đồng thời chịu nhiều tác động phức tạp của hai hệ thống hoàn lưu: Gió mùa Tây Nam và Đông Bắc. Cho nên Việt Nam mang kiểu khí hậu nhiệt đới điển hình nóng ẩm và mưa nhiều.
    Với nhiều đặc trưng phong phú và kiểu khí hậu, Việt Nam khá giàu về thành phần loài thực vật học, hệ thực vật Việt Nam có khoảng trên 12000 loài thực vật bậc cao. (Nguyễn Tiến Bân (2005), Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập 2). Với hệ thực vật phong phú về thành phần loài, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về tài nguyên cây thuốc trong khu vực Đông Nam Á.
    Đồng thời nền y học cổ truyền qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nên chịu ảnh hưởng rất lớn của Y học cổ truyền Trung Quốc.
    Ngay từ thời Vua Hùng dựng nước (2900 năm TCN), qua các văn tự Hán Nôm còn sót lại và qua các truyền thuyết, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia vị kích thích sự ngon miệng và chữa bệnh.

    [TABLE]
    [TR]
    [TD][TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD]7

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Tài liệu sớm nhất về cây thuốc Việt Nam là “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hồng nghĩa giác tư y thư” của Tuệ Tĩnh. Trong tài liệu nay mô tả hơn 630 vị thuốc, 13 đơn thuốc chữa các loại bệnh và 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Ông được coi là một bậc kỳ tài trong lịch sử y học nước ta, là “Vị thánh thuốc Nam”. Ông đã để lại nhiều bộ sách quý cho đời sau như: “Tuệ Tĩnh y thư”, “Thập tam phương gia giảm”, “Thương hàn tam thập thất trùng pháp”. Tới thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn thứ hai “Y tông Tâm tĩnh” cho nước ta. Bộ sách gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả chi tiết về thực vật, các đặc tính chữa bệnh.
    Sau cách mạng Tháng Tám 1945, nhất là sau khi miền Bắc được giải phóng năm 1954, các nhà khoa học Việt Nam có nhiều thuận lợi trong việc sưu tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc. Đỗ Tất Lợi người đã dày công nghiên cứu nhiều năm và đã xuất bản được nhiều tài liệu về sử dụng cây, con làm thuốc của đồng bào dân tộc. Đáng chú ý nhất là năm 1957, ông đã biên soạn bộ “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập, trong đó tác giả mô tả và nêu nên công dụng của hơn 100 cây thuốc nam. Từ năn 1962 - 1965, Đỗ Tất Lợi lại cho xuất bản bộ “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập. Đến năm 1969 tái bản thành 2 tập, trong đó tác giả giới thiệu hơn 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Ông đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các công trình được tái bản nhiều lần vào các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995,1999, 2001, 2003. Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc của ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài và gần đây nhất là tái bản lần thứ 10 (2005); trong đó, ông đã mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành phần hóa học, chia tất cả các cây thuốc đó theo các nhóm bệnh khác nhau. Đây là một bộ sách có giá trị lớn về khoa học và thực tiễn, kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đaị.
    Năm 1960, Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương cho xuất bản bộ “Cây cỏ Việt Nam”. Tuy chưa giới thiệu được hết hệ thực vật Việt Nam, nhưng phần nào cũng đưa ra được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật. Đỗ Tất Lợi (1965) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và được tái bản vào năm 2000. Công trình liệt kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó phần lớn mô tả về thực vật, phân bố, thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng.
    Năm 1966, để phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu cây thuốc, dược sĩ Vũ Văn Chuyên đã cho ra đời cuốn “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” và được in lần thứ hai vào năm 1976. Năm 1980, Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”, với 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện.
    Võ Văn Chi năm 1976, trong luận văn phó tiến sĩ khoa học của mình, ông đã thống kê 1360 cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở Miền Bắc. Đến năm 1991, trong một báo các tham gia hội thảo quốc gia về cây thuốc lần thứ II tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả giới thiệu một danh sách các loài cây thuốc Việt Nam có 2280 loài cây thuốc bậc cao có mạch, thuộc 254 họ trong tám ngành. Trên cơ sở các nghiên cứu của mình và các tài liệu đã công bố. Năm 2002 ông đã biên soạn và xuất bản “Từ điển cây thuốc Việt Nam”. Có thể nói đây là tài liệu giới thiệu số lượng loài cây thuốc lớn nhất và đầy đủ nhất của nước ta cho tới nay.
    Nhóm tác giả của Viện Dược liệu (2003) đã tiến hành biên soạn bộ sách “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam” với hơn 1000 loài, trong đó 920 cây thuốc và 80 loài động vật được sử dụng làm thuốc.
    Các nhà nghiên cứu của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã thu thập, nghiên cứu và công bố một số tài liệu liên quan đến cây thuốc, đáng chú ý là 2 tập sách “Tài nguyên thực vật có tinh dầu Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001; 2002) các tác giả đã đề cập đến giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật có tinh dầu ở Việt Nam.
    Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003; 2005) đã công bố sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” đây là bộ sách có ý nghĩa quan trọng trong tra cứu hệ thực vật nói chung và tra cứu thành phần cây thuốc nói riêng.
    Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về cây thuốc cổ truyền của dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, đã cập nhật và bổ sung cho dữ liệu về cây thuốc dân tộc Việt Nam.
    Mặt khác do sức ép của thị trường tài nguyên cây thuốc bị khai thác quá mức, nên ngày càng cạn kiệt và đứng trước nguy cơ bị đe dọa. Chính phủ và ngành y tế đã có những nỗ lực để bảo tồn tài nguyên sinh vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng. Nhiều công trình Nhà nước về bảo tồn cây thuốc hoặc mô hình bảo tồn nguồn gen cây thuốc ở các dự án đầu tư của Nhà nước, cũng như các dự án của tổ chức phi chính phủ (Bảo tồn cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao tại Ba Vì, Hà Tây - CREDEP), bảo tồn và phát triển cây thuốc ở Sapa,
    Cây thuốc đã gắn liền với đời sống con người từ lâu và hiện nay thì nhu cầu sử dụng nguồn tài nguyên này càng cao hơn. Vì vậy mà VQG Tam Đảo nói riêng và rừng Việt Nam nói chung tài nguyên cây thuốc đang bị suy giảm nghiêm trọng. Mỗi năm theo ước tính có hàng trăm tấn cây thuốc bị khai thác từ rừng tự nhiên Tam Đảo, con số này chỉ dựa trên những nghiên cứu còn rất hạn chế với số lượng nhỏ các xã, thôn nhưng trên thực tế còn cao hơn rất nhiều.
    Vì vậy để bảo tồn nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này đồng thời đảm bảo cuộc sống cho người dân vùng đệm là một trong những thách thức lớn đối với các cấp, ban ngành và chính quyền địa phương nơi đây.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...