Báo Cáo Hệ thống chỉ tiêu kinh tế sử dụng trong phân tích kinh tế trang trại

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Summary


    Commercial farms have increasingly been developing in Vietnam. Although it is an agricultural economic unit there exists no indicator system for economic analysis and assessment of this production forms.
    The present paper describes a system of basic issues on farm economy and farm development in Vietnam. Based on methods of synthesis, holistics and analysis a indicator system to reflect production, costs and efficiency of farm business. This presents a system suitable for specific production conditions in the existing farms and can be used to replace the previous indicators. The indicator system could be applied for farm household economics study.


    Key words: Commercial farms, economic indicators






    1. đặt vấn đề
    Từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (1988) thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp, đặc biệt là sau khi có Luật đất đai (1993) với chính sách giao ruộng đất lâu dài cho nông dân sử dụng . đã là những điểm nhấn, đánh dấu b-ớc khởi động cho kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại phát triển ở Việt Nam. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển đã khai thông đ-ợc những bế tắc, làm thức dậy nhiều tiềm năng và có tác dụng tích cực đối với việc xoá đói, giảm nghèo và làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông nghiệp, nông thôn trên cả n-ớc.
    Tuy kinh tế trang trại ở n-ớc ta đã đ-ợc phát triển mạnh nh-ng việc h-ớng dẫn công tác ghi chép,
    hạch toán chi tiết từng khoản thu, chi và kết quả sản xuất cuối cùng cho các đơn vị kinh tế này vẫn ch-a đ-ợc chú trọng. Ngoài ra, cũng ch-a có một hệ thống chỉ tiêu h-ớng dẫn thống nhất để phân tích kinh tế trong trang trại. Hệ thống chỉ tiêu tài khoản quốc gia (SNA) th-ờng đ-ợc sử dụng để nghiên cứu kinh tế đối với trang trại và hộ nông dân đã không còn phù hợp nữa. Vì vậy, việc đ-a ra một hệ thống chỉ tiêu kinh tế thống nhất để phản ánh toàn diện kết quả, hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại là vấn đề hết sức cần thiết. Trên cơ sở đ-a ra một hệ thống chỉ tiêu kinh tế thống nhất sẽ là cơ sở để h-ớng dẫn cho các chủ trang trại trong việc tổ chức ghi chép, hạch toán kinh doanh để đánh giá đúng kết quả sản xuất kinh doanh, làm căn cứ cho việc phát triển kinh tế trang trại đúng h-ớng và hiệu quả.
    2. đối t-ợng và ph-ơng pháp nghiên cứu
    Đối t-ợng nghiên cứu là hệ thống các chỉ tiêu kinh tế sử dụng trong phân tích kinh tế trang trại, hộ nông dân.
    Các ph-ơng pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: Ph-ơng pháp tổng hợp; Ph-ơng pháp hệ thống; Ph-ơng pháp phân tích kinh tế; Ph-ơng pháp so sánh; Ph-ơng pháp mô tả.
    Thông qua việc tổng hợp, hệ thống các vấn đề liên quan và tiến hành phân tích, so sánh để đ-a ra hệ
    thống các chỉ tiêu kinh tế đ-ợc mô tả bằng các công thức tính toán cụ thể, phù hợp với đặc điểm và
    điều kiện của các trang trại hiện nay.


    3. kết quả nghiên cứu
    3.1. Những vấn đề chung về kinh tế trang trại

    3.1.1 Khái niệm về kinh tế trang trại
    Khái niệm về trang trại đề cập đến một loại hình, đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp, đ-ợc phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân. Có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về trang trại, kinh tế trang trại. Tuy nhiên, dù các cách tiếp cận theo quan điểm khác nhau nh- thế nào, cũng đều thống nhất trên những nội dung chủ yếu d-ới đây.
    Trang trại là đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp, đ-ợc phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia
    đình nông dân, với mục đích chính là sản xuất hàng hoá.
    Trang trại là đơn vị kinh tế sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả nông – lâm – thuỷ sản) của một ng-ời chủ trang trại. Họ vừa là ng-ời làm chủ về ruộng đất, làm chủ về t- liệu sản xuất, vừa là ng-ời tổ chức sản xuất kinh doanh, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình, với mục đích chính là sản xuất hàng hoá và một phần sản phẩm đ-ợc sử dụng cho tiêu dùng của gia
    đình (Nguyễn Đình H-ơng, 2000).
    Với mức độ phát triển cao, trang trại là một doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, có khả năng ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất; vừa sử dụng lao động gia đình, vừa sử dụng lao động làm thuê, tự chủ về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thực hiện hạch toán kinh doanh.
    Nh- vậy, trang trại là đơn vị kinh tế cơ sở trong nông nghiệp, là hình thức tổ chức sản xuất phát
    triển cao của kinh tế hộ nông dân, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, trên cơ sở sản xuất tập trung, quy mô lớn.
    Kinh tế trang trại là khái niệm rộng hơn, là tổng thể các yếu tố bao gồm cả kinh tế, xã hội và môi tr-ờng. Nh- vậy, trang trại là nói đến chủ thể của các yếu tố, còn nói đến kinh tế trang trại chủ yếu đề cập đến yếu tố kinh tế của trang trại và cũng là vấn đề mấu chốt của các đơn vị kinh tế.
    Theo Nghị quyết 03 ngày 2/2/2000 của Chính phủ “ Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản
    xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn với chế biến và tiêu thụ .”.
    Tiêu chí để xác định kinh tế trang trại ở n-ớc ta hiện nay dựa theo thông t- liên tịch số 69/TTLT ngày 23/6/2002 của Bộ NN & PTNT và Tổng cục Thống kê quy định cụ thể nh- sau:
    - Đối t-ợng, ngành sản xuất đ-ợc xem xét xác định kinh tế trang trại là hộ nông dân, hộ công nhân viên chức, lực l-ợng vũ trang đã nghỉ h-u, hộ ở các thành thị và các cá nhân chuyên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
    - Các tiêu chí định l-ợng kinh tế trang trại thể hiện qua quy mô sản xuất phải t-ơng đối lớn và
    v-ợt trội so với kinh tế hộ đối với từng ngành sản xuất, từng vùng kinh tế, cụ thể:
    + Với trang trại trồng trọt có từ 02 ha đất trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải Miền Trung; từ 03 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên; trang trại lâm nghiệp phải có từ 10 ha trở lên.
    + Với trang trại chăn nuôi: Nếu chăn nuôi trâu, bò sinh sản và lấy sữa phải có th-ờng xuyên 10
    con gia súc trở lên. Nếu chăn nuôi lợn, dê . để sinh sản phải th-ờng xuyên có 20 con trở lên. Nếu chăn nuôi đại gia súc, gia súc lấy thịt phải có th-ờng xuyên 50 con trở lên .
    + Về nuôi trồng thuỷ sản, diện tích mặt n-ớc để nuôi trồng thuỷ sản phải có từ 02 ha trở lên.
    + Đối với một số lĩnh vực đặc thù nh- trồng hoa cây cảnh, sản xuất giống thuỷ sản . thì tiêu chí xác định là giá trị sản phẩm hàng hoá từ 40 triệu đồng trở lên.


    3.1.2 Phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
    Xét về lịch sử, kinh tế trang trại đã đ-ợc phát triển ở n-ớc ta từ xa x-a và có các tên gọi khác nhau. Theo sách Lịch sử nông nghiệp Việt Nam: “ Năm 1266, triều đình nhà Trần đã cho phép các v-ơng hầu, công chúa, phò mã, cung phi .triệu tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn”.

    Đời hậu Lê, nhà n-ớc cũng có chủ tr-ơng mở rộng khai hoang lập đồn điền để cấp cho ng-ời họ hàng nhà vua và quan lại cai quản.
    Đời các triều vua nhà Nguyễn đã ban hành nhiều đạo luật về khai hoang bằng việc sử dụng dân phiêu tán, binh lính, tù nhân lập ấp trại, lập đồn điền, trang trại.
    Thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp các đồn điền, trại ấp đ-ợc phát triển mạnh cả về quy mô và số l-ợng. Các trang trại, đồn điền thời kỳ này phát triển mạnh khắp ba miền Bắc – Trung – Nam, đặc biệt là ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên (Hỏi đáp về kinh tế trang trại và phát triển cây công nghiệp, 2002).
    Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, ở miền Nam các đồn điền của t- bản, thực dân vẫn đ-ợc duy trì và phát triển. ở miền Bắc, Nhà n-ớc tiến hành tịch thu ruộng đất của địa chủ, thực dân để chia cho nông dân, sau này đ-ợc tập thể hoá để hình thành các HTX sản xuất nông nghiệp, hoặc thành
    lập các Nông, Lâm tr-ờng quốc doanh.
    Sau năm 1975, ở miền Nam mô hình phát triển nông nghiệp cũng đ-ợc áp dụng nh- ở miền Bắc, nghĩa là các HTX nông nghiệp cũng đ-ợc phát triển, các đồn điền, trang trại t- bản chủ nghĩa
    đ-ợc quốc hữu hoá để phát triển các Nông, Lâm tr-ờng quốc doanh. Thời kỳ này ở miền Bắc các HTX NN và các Nông – Lâm tr-ờng quốc doanh vẫn phát triển nh-ng đã có những dấu hiệu giảm sút về hiệu quả và nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cả một giai đoạn dài, nền kinh tế nông nghiệp ở n-ớc ta phát triển mang nặng tính tập trung, quan liêu, bao cấp tồn tại d-ới hai hình thức quốc doanh và tập thể. Hai hình thức kinh tế này dần dần đã bộc lộ những yếu kém, khuyết tật cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn nên cần phải đ-ợc đổi mới một cách triệt để. Trong những năm gần đây, khái niệm về kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại mới đ-ợc đề cập lại .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...