Tiến Sĩ Hàm ý và phương thức biểu thị hàm ý trong tiếng Việt

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 26/3/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SỸ
    NĂM 2014

    MỤC LỤC

    MỞ ĐẦU 1
    0.1. Lý do chọn đề tài 1
    0.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
    0.2.1. Về khái niệm hàm ý 2
    0.2.2. Về phương thức biểu thị hàm ý 6
    0.3. Tính thời sự của đề tài 7
    0.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7
    0.5. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu 8
    0.6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 8
    0.6.1. Phương pháp nghiên cứu 8
    0.6.2. Nguồn tư liệu 10
    0.7. Bố cục đề tài 10
    CHƯƠNG 1. CÁC KHÁI NIỆM XUẤT PHÁT 12
    1.1. Phát ngôn 12
    1.2. Cơ cấu nghĩa của phát ngôn 13
    1.3. Nghĩa mệnh đề và nghĩa tình thái 15
    1.3.1. Nghĩa mệnh đề 15
    1.3.2. Nghĩa tình thái 17
    1.4. Nghĩa chủ đề 18
    1.5. Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn 19
    1.5.1. Nghĩa tường minh 19
    1.5.2. Nghĩa hàm ẩn 20
    1.6. Hàm ý 22
    1.6.1. Thuật ngữ hàm ý 22
    1.6.2. Quan niệm về hàm ý 24
    1.6.3. Quan niệm về hàm ý trong luận án 29
    1.7. Điều kiện sử dụng hàm ý trong giao tiếp 38
    1.7.1. Hoàn cảnh giao tiếp 38
    1.7.2. Nhân vật giao tiếp 41
    Tiểu kết 44
    CHƯƠNG 2. CÁC LOẠI HÀM Ý 46
    2.1. Vấn đề phân loại hàm ý trong các tài liệu ngữ dụng học 46
    2.2. Các loại hàm ý được phân loại theo phương tiện biểu hiện 48
    2.2.1. Hàm ý của từ 48
    2.2.2. Hàm ý của toàn phát ngôn 62
    2.3. Các loại hàm ý được phân loại theo số lượng hàm ý của phát ngôn (theo tầng nghĩa) 70
    2.3.1. Hàm ý đơn 70
    2.3.2. Hàm ý phức 73
    2.4. Các loại hàm ý phân loại theo quan hệ với nghĩa tường minh 78
    2.4.1. Hàm ý tăng tiến 78
    2.4.2. Hàm ý trái ngược 80
    2.5. Các loại hàm ý phân loại theo quan hệ với các nghĩa hàm ẩn khác 83
    2.5.1. Hàm ý kiêm chức 83
    2.5.2. Hàm ý không kiêm chức 85
    2.6. Các loại hàm ý phân loại theo mức độ phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp 85
    2.6.1. Hàm ý quy ước 85
    2.6.2. Hàm ý hội thoại 90
    CHƯƠNG 3. PHƯƠNG THỨC BIỂU THỊ HÀM Ý TRONG TIẾNG VIỆT 93
    3.1. Khái niệm “phương thức biểu thị hàm ý” 93
    3.2. Điểm lại danh sách các phương thức biểu thị hàm ý 96
    3.2.1. Phương thức biểu thị hàm ý khái quát (generalized implication) 97
    3.2.2. Phương thức biểu thị hàm ý hội thoại đặc thù (particular implicature) 99
    3.2.3. Nhận xét chung 101
    3.3. Thử đề xuất một danh sách các phương thức biểu thị hàm ý 107
    3.3.1. Sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đặc thù 108
    3.3.2. Vi phạm phương châm hội thoại, quy tắc quan yếu 114
    3.4. Về hiện tượng “lệch pha” trong giao tiếp 137
    3.4.1. Dấu hiệu của sự “lệch pha” trong giao tiếp 138
    3.4.2. Một số nguyên nhân 140
    3.4.3. Giải pháp khắc phục 141
    Tiểu kết 142
    KẾT LUẬN 145


    MỞ ĐẦU
    0.1. Lý do chọn đề tà
    i
    Khái niệm hàm ý cùng lý thuyết hàm ngôn hội thoại của H.P. Grice được đánh giá là một bước tiến quan trọng của ngôn ngữ học, mới ra đời cách đây non nửa thế kỷ. Tuy nhiên, việc sử dụng hàm ý để chuyển tải những thông tin mà vì một số lý do nhất định, người ta không tiện hoặc không nên nói thẳng ra là một hiện tượng bình thường trong thực tế, hẳn đã có ngay từ những cuộc giao tiếp đầu tiên trong xã hội văn minh. Trong các công trình của mình, H.P. Grice nhận xét: trong giao tiếp, nhiều khi chúng ta “nói điều này nhưng thật ra muốn nói một điều khác”. Đồng tình với ý kiến này, Hoàng Phê – người đầu tiên giới thiệu và vận dụng lý thuyết của H.P. Grice vào nghiên cứu tiếng Việt, bổ sung: “Hằng ngày sử dụng ngôn ngữ, lắm khi chúng ta nói một điều này, nhưng lại muốn cho người nghe từ đó hiểu ra một điều khác, hoặc hiểu thêm một điều khác nữa” [58, 93]. Thậm chí, ông cho rằng: “Khi một lời nói có hàm ngôn thì ý hàm ngôn thường là quan trọng, thậm chí, có khi hiển ngôn chỉ là dùng để nói hàm ngôn, ý hàm ngôn là ý chính” [58, 93]. W.A. Davis (2005) cũng khẳng định vai trò của việc nghiên cứu loại nghĩa hàm ẩn này trong ngôn ngữ học: “Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một trong những chủ đề chính của ngữ dụng học.”
    Không chỉ có tác dụng trong giao tiếp hằng ngày, hàm ý còn có giá trị sử dụng rất lớn trong các hoạt động chính trị, ngoại giao và sáng tác văn học. Bởi vậy, từ khi có những phát hiện của H.P. Grice, đặc biệt là từ sau khi ông hoàn thiện và công bố chúng trong tập bài giảng ở Đại học Harvard (1967), cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo Ghi chú thêm về logic và hội thoại (1978), giới nghiên cứu đã tập trung khai thác rất nhiều vấn đề xung quanh khái niệm hàm ý, các loại hàm ý và phương thức biểu thị hàm ý. Tuy nhiên, vấn đề phân loại hàm ý chưa đạt được sự thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu, việc xem xét phương thức biểu thị hàm ý chủ yếu giới hạn ở việc sử dụng một số biểu thức ngôn ngữ (tạo hàm ý ngôn ngữ) và một số biện pháp vi phạm phương châm giao tiếp (tạo hàm ý hội thoại). Đặc biệt, việc nghiên cứu hàm ý trong sáng tác văn học chưa được đầu tư thỏa đáng nên kết quả chưa có chiều sâu. Phần lớn các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình văn học mới dừng ở việc khai thác các chi tiết, hình tượng nghệ thuật từ kinh nghiệm cá nhân. Ngược lại, phần lớn các nhà ngôn ngữ học tự bằng lòng giới hạn nghiên cứu của mình trong phạm vi ngôn ngữ học đơn thuần, chưa làm rõ được mối quan hệ giữa những kiến giải của lý thuyết hàm ngôn hội thoại với lĩnh vực văn học.
    Tình hình trên đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề chưa có sự thống nhất cao, chưa có điều kiện đi sâu để góp phần phát triển nhận thức chung về hàm ý, phương thức biểu thị hàm ý và khả năng ứng dụng những kiến giải này vào thực tế. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài luận án Hàm ý và phương thúc biểu thị hàm ý trong tiếng Việt.
    0.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
    0.2.1. Về khái niệm hàm ý
    Khái niệm “hàm ngôn hội thoại” được Herbert Paul Grice “thai nghén” từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX rồi hoàn thiện trong phác thảo thuyết hàm ngôn mà ông đưa vào tập bài giảng William James khi đang giảng dạy tại Đại học Harvard năm 1967. Ngay từ đầu, các vấn đề về hàm ngôn trong tập bài giảng William James đã có ảnh hưởng rất lớn nhưng có lẽ phải một thời gian, sau khi cuốn Logic và hội thoại (1975) và bài báo Ghi chú thêm về logic và hội thoại (1978) ra đời thì thuyết hàm ngôn hội thoại của Grice mới thực sự trở thành “một trong những chuyên luận kinh điển” của ngữ dụng học.
    Phần lớn công trình Logic và hội thoại của Grice tập trung vào việc làm rõ sự khác biệt (về mặt trực giác) giữa “cái được diễn tả bằng lời” trong câu nói và “cái được gợi ý” (hoặc nói bóng gió) trong câu nói. Để chỉ “cái được gợi ý” này, Grice (1975; 1978) đã sử dụng các thuật ngữ mới là “hàm ý” (implicate) và “hàm ngôn” (implicature); đồng thời, ông xem phần được mã hóa ngôn ngữ của phát ngôn là “cái được nói đến”. Ông cho rằng, tổng số “cái được nói đến trong câu” và “cái được hàm ý” trong cùng một câu nói đó được gọi là “các ý nghĩa biểu hiện của một phát ngôn” [96].
    Phát hiện của Grice đã mở ra một trào lưu mới trong nghiên cứu ngôn ngữ. W.A. Davis (2005) khẳng định: “Hàm ngôn hội thoại đã trở thành một trong những chủ đề chính của ngữ dụng học.”
    Cho đến nay, có thể nói các công trình nghiên cứu ngữ dụng học đã đạt được quan niệm thống nhất về hàm ý như sau:
    (1) Hàm ý là phần nghĩa hàm ẩn (nghĩa hàm ngôn) không được thể hiện trên bề mặt câu chữ của phát ngôn nhưng được suy ra từ nghĩa tường minh (nghĩa hiển ngôn) và hoàn cảnh giao tiếp.
    Quan niệm này không chỉ được thể hiện trong các tác phẩm của Grice mà còn được thể hiện rõ trong những tài liệu vận dụng lý thuyết của ông như các công trình của O. Ducrot (1972), G. Yule (1997), Hoàng Phê (1989), Nguyễn Đức Dân (1996), Hồ Lê (1996), Cao Xuân Hạo (1998), Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Hữu Châu (2005), Chẳng hạn, O. Ducrot quan niệm: “Thực chất của hàm ngôn là nói mà coi như không nói, nghĩa là nói một cái gì đó mà không vì thế nhận trách nhiệm là đã có nói, có nghĩa là vừa có hiệu lực nói năng vừa có sự vô can trong im lặng” (Dẫn theo [58; 98 – 100]); Hồ Lê (1996) viết: “Hàm ý là tất cả những ý nghĩa, tình thái hàm ẩn mà người phát ngôn ký thác vào phát ngôn nhưng nằm ngoài ý nghĩa hiển hiện của phát ngôn, trong đó có việc biểu thị những sở chỉ khác với những sở chỉ mà hiển nghĩa của phát ngôn biểu thị” [44; 335]; Nguyễn Thiện Giáp (2000) thì giải thích: “Hàm ý chính là những gì người nghe phải tự suy ra qua phát ngôn, để hiểu đúng và đầy đủ ý nghĩa của phát ngôn đó” [19; 136].
    (2) Hàm ý là phần có giá trị thông tin thuộc nghĩa hàm ẩn, đối lập với tiền giả định (TGĐ) là phần không có giá trị thông tin.
    H.P.Grice (1975) phân biệt nghĩa hàm ẩn tự nhiên (natural meaning) với nghĩa hàm ẩn không tự nhiên (non-natural meaning). O. Ducrot thống nhất với quan niệm của Grice nhưng thể hiện sự phân biệt đó bằng các thuật ngữ “hàm ngôn” và “tiền giả định” (TGĐ). Ông coi TGĐ là một hình thức hàm ngôn quan trọng, là hàm ngôn nằm trực tiếp trong bản thân “nghĩa từ ngữ” của lời (Dẫn theo [58; 98]).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...