Luận Văn Hạch toán kế toán quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong các doanh nghiệp tại Công ty Thương mại

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    169
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hạch toán kế toán quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong các doanh nghiệp tại Công ty Thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông

    PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM, HÀNG HOÁ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.

    I. Ý NGHĨA CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN.

    KHÁI NIỆM HẠCH TOÁN KẾ TOÁN.

    Hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ phức tạp và đa dạng của các hoạt động kinh tế càng tăng, mối quan tâm của con người đến hoạt động kinh tế cũng càng tăng. Điều này đặt ra nhu cầu tất yếu phải thực hiện chức năng quản lý kinh tế. Để quản lý được các hoạt động kinh tế thì cần thiết phải có số liệu, để có được các số liệu phục vụ cho hoạt động quản lý, đòi hỏi phải thực hiện việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động đó. Tất cả những công việc này nhằm thực hiện chức năng giám sát các hoạt động kinh tế tài chính gọi là hạch toán kế toán . Vậy hạch toán kế toán được hiểu như sau :

    Hạch toán kế toán là một hệ thống thông tin và kiểm tra về tài sản trong các doanh nghiệp , các tổ chức bằng hệ thống phương pháp khoa học như chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và tổng hợp - cân đối kế toán .

    2. ĐẶC ĐIỂM HẠCH TOÁN KẾ TOÁN.

    Hạch toán kế toán với chức năng phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính trong tất cả các doanh nghiệp và các tổ chức nên có những đặc điểm sau :

    Thứ nhất, Hạch toán kế toán nghiên cứu tài sản trong mối quan hệ với nguồn hình thành và quá trình vận động của tài sản trong các tổ chức, các đơn vị nhờ đó mà hạch toán kế toán thực hiên được sự giám đốc liên tục cả trước, trong và sau quá trình sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn.

    Thứ hai, Hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế đều được ghi chép theo giá trị và biểu hiện bằng tiền. Nhờ đó mà hạch toán kế toán cung cấp được các chỉ tiêu tông hợp phục vụ cho việc giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế tài chính .

    Thứ ba, Hạch toán kế toán sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu khoa học như chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp - cân đối kế toán để nghiên cứu đối tượng của mình. Trong đó phương pháp lập chứng từ kế toán là thủ tục hạch toán đầu tiên và bắt buộc phải có đối với mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhờ đó mà số liệu do kế toán phản ánh bảo đảm được tính chính xác và có cơ sở pháp lý vững chắc.

    3. Ý NGHĨA CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ.

    Sản phẩm của hạch toán kế toán là thông tin kế toán . Trong đó để ra các quyết định quản lý các nhà quản lý sử dụng rất nhiều nguồn thông tin khác nhau, nhưng thông tin kế toán là quan trọng nhất và không thể thiếu được. Bởi vì nghiên cứu bản chất của hạch toán kế toán ta thấy chức năng chính của hạch toán kế toán là phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính ở tất cả các doanh nghiệp , tổ chức. Do đó toàn bộ bức tranh về hoạt động sản xuất kinh doanh từ khâu đầu tiên, là cung cấp vật tư cho sản xuất, qua khâu sản xuất đến khâu cuối cùng là tiêu thụ đều được phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua thông tin kế toán . Hơn thế nữa hạch toán kế toán còn thực hiện chức năng phản ánh và giám đốc một cách liên tục, toàn diện có hệ thống mọi hoạt động kinh tế qua hai mặt của mỗi hiện tượng, mỗi quá trình : vốn và nguồn, tăng và giảm, chi phí và kết quả. Vì vậy thông tin kế toán có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động quản lý. Cụ thể :

    Hạch toán kế toán giúp các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, các dự án đặt ra; qua việc phân tích các thông tin kế toán ban giám đốc sẽ quyết định nên sản xuất mặt hàng nào, với nguyên liệu gì và mua từ đâu, nên đầu tư mới hay duy trì thiết bị cũ, nên mua bên ngoài hay tự sản xuất, nên tiếp tục hoạt động hay chuyển hướng hoạt động sang những lĩnh vực mới.

    Hạch toán kế toán giúp các nhà đầu tư , chủ nợ có được các quyết định có nên đầu tư hoặc cho vay hay không và đồng thời cũng biết được doanh nghiệp đã sử dụng vốn đó như thế nào, có hiệu quả hay không, có đúng mục đích hay không; nhờ vào các thông tin về hiệu quả của một thời kỳ kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp .

    Hạch toán kế toán cũng giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, soạn thảo luật lệ; thông qua kiểm tra tổng hợp các số liêu kế toán Nhà nước nắm được tình hình chi phí , lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra các chính sách về đầu tư , thuế vụ thích hợp.


    II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ TRONG DOANH NGHIỆP.

    1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ.

    ã Quá trình tiêu thụ: là quá trình doanh nghiệp chuyển giao hàng hoá, sản phẩm hoặc cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng, được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán.

    Nội dung của quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá gồm :

    + Xuất sản phẩm, hàng hoá để bán và thanh toán với người mua

    + Tính chính xác các khoản doanh thu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.

    + Tính chính xác các khoản thuế doanh thu và thuế tiêu thụ đặc biệt để xác định doanh thu thuần và cuối cùng xác định lãi - lỗ vê tiêu thụ sản phẩm.

    ã Doanh thu bán hàng là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá; sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ, lao vụ cho khách hàng.

    Căn cứ vào chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 ban hành và công bố theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thoả mãn tất cả 5 điều kiện sau :

    + Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua;

    + Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá;

    + Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;

    + Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;

    + Doanh nghiệp xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.

    Doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá cho người mua trong từng trường hợp cụ thể. Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền kiểm soát hàng hoá cho người mua.

    Trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không được ghi nhận. Cụ thể doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá như :

    + Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được hoạt động bình thường mà việc này không nằm trong các điều khoản bảo hành thông thường;

    + Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào người mua hàng hoá đó;

    + Khi hàng hoá được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt đó là một phần quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành;

    + Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng hàng bán có bị trả lại hay không.

    Nếu doanh nghiệp chỉ còn phải chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi nhận. Ví dụ như doanh nghiệp còn nắm giữ giấy tờ về quyền sở hữu hàng hoá chỉ để đảm bảo sẽ nhận được đủ các khoản thanh toán.

    Doanh thu bán hàng được ghi nhận chỉ khi đảm bảo là doanh nghiệp nhận được lợi ích kinh tế từ giao dịch. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng còn phụ thuộc yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu khi yếu tố không chắc chắn này đã xử lý xong (ví dụ, khi doanh nghiệp không chắc chắn là Chính phủ nước sở tại có chấp nhận chuyển tiền bán hàng ở nước ngoài về hay không). Nếu doanh thu đã được ghi nhận trong trường hợp chưa thu được tiền thì khi xác định khoản tiền nợ phải thu này là không thu được thì phải hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ mà không được ghi giảm doanh thu . Khi xác định khoản phải thu là không chắc chắn thu được (nợ phải thu khó đòi) thì phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi mà không ghi giảm doanh thu . Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác định là thực sự không đòi được thì được bù đắp bằng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi.

    ã Doanh thu thuần : là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm giá; chiết khấu bán hàng, doanh thu của số hàng bán bị trả lại; thuế giá trị gia tăng đầu ra; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...