Chuyên Đề GIÁO TRÌNH QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG - GIÁO SƯ MANFRED SCHREINER Trường Ðại học Fulda, CHLB Ðức

Thảo luận trong 'Môi Trường' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vấn đề cư xử với tài nguyên thiên nhiên là: không khí, nước, đất, nguyên liệu, phong cảnh, cây và súc
    vật ngày càng trở nên cấp bách hơn. Không có ngày nào trôi qua mà không có tin tức về sự ô nhiễm môi trường
    và hậu quả của nó. Một trong những nguyên nhân của nó mà chúng ta đã biết và đồng thời nó còn là một vấn
    đề môi trường, đó là cách thức của sự hoạt động kinh tế, của dân số thế giới ngày càng tăng trưởng nhanh
    chóng. Sự chuyển hoá về mặt kinh tế các trí thức khoa học tự nhiên và sư phát triển kỹ thuật trong thời gian
    gần đây của nhân loại đã dẫn đến một trạng thái mà các nước công nghiệp Phương tây tìm cách miêu tả và
    định lượng dưới khái niệm “Tiêu chuẩn đời sống cao“. Ðại lượng đo của nó là tổng sản phẩm xã hội và sự
    tăng tiến của nó là châm ngôn của hành động trong một xã hội với sự tăng trưởng liên tục. Trong quá khứ thì
    điều đó được phép và là chính đáng và nó đáp ứng quan điểm giá trị của phần lớn dân chúng. Sự phê phán từ
    lâu của khoa học đối với đại lượng đó ngày càng có thêm ý nghĩa trong đời sống chính trị và xã hội.
    Nguyên nhân của sự phê phán đó là sự dần dần nhìn nhận thấy giới hạn của sự tăng trưởng, đó là: sự
    khan hiếm về nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng rõ nét hơn, sự đe dọa đến sự tồn sinh qua sự ô nhiễm
    thiên nhiên ngày càng cố ý hơn. Cuộc đấu tranh của con người chống lại sự đe dọa của thiên nhiên trước đây
    thì bây giờ ngược lại, đó là sự đe dọa thiên nhiên từ con người. Do việc không tôn trọng các mối liên quan về
    sinh thái trong việc ứng dụng các điều kiện khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật để làm kinh tế cho nên nó
    đang có nguy cơ bị mất nền móng mà bản thân nó đang được xây dựng trên đó.
    Song song với điều đó là sự thay đổi trong quan điểm giá trị. Quan điểm cơ bản này thay đổi nhanh
    chóng và hình ảnh chung của nó mang tính đa nguyên hơn. Thêm vào đó là quan niệm mới về mục tiêu mà
    chúng không tuân thủ theo quan điểm xã hội mà nó đã được ngự trị trong nhiều thập niên mà người ta thường
    gọi là „Hữu“ và „Tả“. Quan điểm cơ bản này mới thoát ra khỏi sự xếp đặt giữa các vị trí „Tự do, Cá nhân“ và
    „ XHCN, Tập thể“.
    Song quan đi m c b n này còn thi u nh ng đ su t c th và kh ể ơ ả ế ữ ề ấ ụ ể ả dĩ để nó có thể trở thành “Một xã
    hội được lựa trọn để thay thế“. Có nhiều cái hiện tại mà nó được đánh giá cao ở góc độ vật chất, sẽ được
    đánh dấu hỏi. Những cái đó, mà trong trường hợp cụ thể của một xã hội được lựa chọn thay thế, cũng không
    thể bỏ qua được. Ðại lượng tổng sản phẩm xã hội, là thước đo cho tiêu chuẩn cuộc sống, sẽ được thay thế
    bằng đại lượng „Chất lượng cuộc sống“. Trong trường hợp đó thì thành quả của công nghệ hiện đại và của
    kinh tế dành cho phần lớn dân chúng vẫn giữ được giá trị của nó, mặc dù phải tương đối hóa nó và đưa nó
    vào các chỉ số trong lĩnh vực tự nhiên và môi trường xã hội, cái mà cho đến nay nó vẫn bị bỏ qua.
    Ðứng trước vấn đề này đã có sự sẵn sàng ngày càng cao cho một sự thay đổi. Giữa việc nhận biết
    của sự định hướng mới cần thiết trong tổng thể nền kinh tế và hành động của từng ngành kinh tế, còn có sự
    trái ngược nhau đáng kể. Ðặc biệt là hiện tượng “Hiệu ứng bên ngoài“ và “Vấn đề tài sản tập thể“ đang ngăn
    cản một sự chuyển biến nhanh những nhận thức về sinh thái trong hoạt động kinh tế, khi mà một nền kinh tế
    hài hòa với môi trường chủ yếu vẫn làm thiệt hại đến mục tiêu lợi nhuận.
    Hệ thống sinh thái và hệ thống kinh tế không mang tính trung hòa với nhau mà trong thời gian qua đã
    trở thành sự mâu thuẫn mang tính tồn sinh của cả hai hệ thống và nó đã trở thành đối tượng bàn luận của cả
    xã hội. Sự giảm mâu thuẫn về mục tiêu và kể cả việc tìm kiếm những mục tiêu hài hòa giữa hai hệ thống đó
    đang là đối tượng và sự nhận thức của nhiều cố gắng trong chính giới, trong nghiên cứu, trong kinh tế và trong
    giảng dạy.
    Hệ thống
    Kinh tế
    Hệ thống
    Văn hoá-Xã hội
    Hệ thống chính trị
    Hệ thống
    Kỹ thuật
    Hệ thống
    Sinh thái
    Luật pháp
    Sự chuyển hoá giá trị
    Sự làm ô nhiễm
    làm ô nhiễm
    Sự chuyển hoá kỹ thuật
    Hình 1.1: Các mối liên quan hệ thống
    1.2. Khái niệm cơ bản mang tính lý thuyết hệ thống
    1.2.1. Ðặc điểm của hệ thống kinh tế
    Một hệ thống được cấu thành bởi các cấu tử và các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Các cấu tử
    trong hệ thống kinh tế là: yếu tố sản xuất, cán bộ công nhân viên, phương tiện sản xuất (nhà xưởng, máy móc,
    v.v.) và vật liệu. Trong hệ thống đó còn có các mối quan hệ: mối quan hệ làm việc, mối quan hệ dòng chảy
    vật tư, mối quan hệ thông tin, mối quan hệ lãnh đạo, các mối quan hệ khác v.v. Ngoài ra còn có mối quan hệ
    giữa các hệ thống với nhau và mối quan hệ với hệ thống bên ngoài.
    Hệ thống kinh tế có mối quan hệ ra bên ngoài (là hệ thống ngỏ), ví dụ như: có quan hệ với thị trường
    mua sắm, với thị trường cung tiêu. Giới hạn của hệ thống là tại đó, nơi mà mối quan hệ của nó ít nhất. Từ
    tầm nhìn mang tính định hướng theo hệ thống thì doanh nghiệp là „Một hệ thống mang tính: ngỏ, động, xã hội
    và kỹ thuật“. Hệ thống xung quanh của kinh tế doanh nghiệp là khối lượng tất cả các hệ thống khác. Song, chỉ
    tính các đối tượng quan trọng mà từ đó để „Nhận Ðầu vào và đẩy Ðầu ra“ cho nó.
    Một hệ thống xung quanh (bao quanh) quan trọng là môi trường tự nhiên. Từ hệ thống này,
    tài nguyên dưới dạng là nguyên liệu và năng lượng được tiếp nhận và môi trường cũng là nơi để tiếp
    nhận lại Ðầu ra không được mong muốn có.
    Một vài đặc tính của hệ thống là:
    - Năng động: là mức độ cho sự thay đổi,
    - Ðịnh thức: là sự thể hiện số lượng các phản ứng có thể có được.
    - Ðịnh hướng mục tiêu: là các hành động trong hệ thống được hướng về mục tiêu,
    - Phức hợp: là mức độ chỉ mối quan hệ và sự phụ thuộc của hệ thống,
    - Sự cân bằng: là mối tương quan của sự ổn định và của sự không ổn định. Ðó là khả năng để trở lại
    sự cân bằng sau khi có sự cố.
    - Sự thích ứng: là khả năng phản ứng đến sự thay đổi các thông số.
    Hệ thống xung quanh
    Hệ thống xung quanh
    E11 E12
    E32
    E31 E13 E41
    E22
    E21
    E23
    Hình
    1.2.1: Thành
    phần và mối
    quan hệ trong
    hệ thống
    Hệ
    thống kinh tế
    lớn lên, co
    lại, phân ly,
    biến mất,
    đều chịu sự
    bài trí của con
    người (hệ
    thống nhân
    tạo), nhưng
    nó cũng có sự ảnh hưởng mang tính độc lập. Hệ thống kinh tế là:
    - Ðộng: Các quá trình hoạt động trong hệ thống được gọi là động năng nội tại . Nó tác động đến một
    sự thay đổi liên tục của cấu trúc hệ thống. Cũng tương tự như vậy, có sự tồn tại động năng ngoại vi với hệ
    thống môi trường. Sự thay đổi được tạo nên từ nội tại quá trình thích ứng của hệ thống kinh tế cũng như
    ngược lại, từ sự thay đổi của hệ thống kinh tế đến hệ thống xung quanh.
    Ví dụ:
    * S thay đ i trong ự ổ hệ thống doanh nghiệp:
    Các sự thay đổi độc lập trong hệ thống mục tiêu như: đầu tư, nâng cao sản xuất, sự thay đổi trong
    nhân sự, sự thay đổi về phương pháp mới, sự thay đổi về bài trí sản phẩm và về công nghệ phù hợp với môi
    trường.
    * Sự thay đổi trong hệ thống do bên ngoài gây nên:
    Thích ứng sản xuất theo sự thay đổi về nhu cầu đầu tư trên cơ sở tiến bộ kỹ thuật, sự thay đổi về
    sản phẩm và phương pháp trên cơ sở yêu cầu của luật pháp.
    * Sự thay đổi trong môi trường xung quanh xuất phát từ doanh nghiệp:
    Quảng cáo về sự thay đổi nhu cầu như: sự phát xạ đã dẫn đến làm ô nhiễm môi trường và dẫn đến
    sự sa sút khả năng tái tạo của thiên nhiên.
    - Hướng mục tiêu:
    Hệ thống có mục đích của hệ thống mà từ đó xác định mục tiêu của hệ thống. Mục tiêu được dẫn dắt
    từ mục đích của hệ thống kinh tế (ví dụ: đáp ứng nhu cầu, sinh lợi), ví dụ như: mục tiêu sinh lợi, tỷ lệ thị
    trường, mục tiêu doanh thu, giữ được khả năng cạnh tranh. Hệ thống kinh tế được định nghĩa bởi hướng mục
    tiêu. Sự quyết định về mục tiêu chịu sự chi phối của tính động năng nội tại và ngoại vi.
    - Tính bó buộc
    Ðặc điểm của hệ thống kinh tế là nó có ít điều kiện và cơ hội để phản ứng. Nói một cách khác là: sự
    phản ứng của hệ thống đến sự thay đổi có thể phong phú, đa dạng nhưng bị giới hạn bởi độ chính xác của sự
    dự báo.
    Ví dụ:
    Ðứng ở góc độ chuyển động thì tàu hỏa là một hệ thống rất bó buộc. Nó có thể chuyển động về phía
    trước hay chạy dật lùi. Chuyển động ngang thì bị chặn bởi đường ray. Xe ôtô có độ bó buộc thấp, bởi lẽ ngoài
    việc chuyển động được về phía trước, phía sau, nó còn chuyển động sang trái, sang phải được. Máy bay thì lại
    có thêm độ tự do, đó là nó có thể thay đổi độ bay cao ( ở đây không nói đến khả năng bay dật lùi).
    - Phức hợp
    Hệ thống kinh tế rất phức hợp bởi lẽ một số lượng các thành phần khác nhau trong hệ thống liên kết
    với nhau rất phong phú, nhưng lại có mối quan hệ đối chọi và ảnh hưởng lẫn nhau.
    - Có sự linh hoạt nhiều hay ít
    Với khái niệm linh hoạt là để chỉ khả năng của doanh nghiệp thích ứng với sự thay đổi về các điều
    kiện của hệ thống xung quanh mà không phải thay đổi cấu trúc bên trong của doanh nghiệp. Sự linh hoạt của
    hệ thống kinh tế điều chỉnh và cho thấy sự phụ thuộc tức thời vào nhiều yếu tố bài trí khác nhau; ví dụ như:
    sản xuất thiết bị hay tăng cường sản xuất; cơ cấu tổ chức (nhất là sự bài trí lãnh đạo), chất lượng của hệ
    thống thông tin. Mục tiêu của việc bài trí tổ chức là đảm bảo cho doanh nghiệp có độ linh hoạt cao.
    - Có sự ổn định nhiều hay ít (không ổn định)
    Với khái niệm ổn định là để chỉ đặc tính của hệ thống, mặc dù có sự cố nhưng vẫn có khả năng trở
    lại trạng thái cân bằng mới cho các mối quan hệ của hệ thống và như vậy, nó đảm bảo được sự sống còn của
    hệ thống.
    1.2.2. Ðặc điểm của hệ thống sinh thái
    Hệ thống sinh thái có những đặc tính giống như hệ thống kinh tế, đó là có sự phong phú về các yếu tố
    sống động và không sống động của tự nhiên trong một mối quan hệ cực kỳ phức hợp. Một mặt thì chỉ cần có
    một sự cố nhỏ trong mối quan hệ là có thể phá vỡ tiểu hệ thống sinh thái (rất mất ổn định).
    Nhưng mặt khác, tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, nó lại lập lại sự cân bằng mới với thời gian thích
    nghi khác nhau. Liệu rằng điều đó có đáp ứng được quan điểm mục tiêu của con người hay không thì đó là
    chuyện khác. Hệ thống sinh thái cũng có khả năng xử lý các yếu tố gây ảnh hưởng và thiết lập lại sự cân bằng
    trước đây (khả năng tái tạo tự nhiên).
    Hình 1.2.2. Chu trình sinh học
    Các đ nh lu t quan tr ng là: đ nh lu t ti n hóa (s phát tri n t nhiên đ n hình ị ậ ọ ị ậ ế ự ể ự ế thái sống cao hơn), định
    luật lựa chọn (sự đào thải tự nhiên), định luật về sự sống, định lý về Entropie. Theo định lý số 2 của lý thuyết
    nhiệt động học thì: từ năng lượng hữu ích để trở về Entropie thì theo đó, năng lượng hướng về một trạng thái
    là sự phân tán đều trong không gian với một sự tập trung thấp. Từ đó dẫn đến luận điểm về sự xụp đổ, về cái
    chết, và về sự hủy diệt hệ thống. Ðiều đó đối chọi với quan điểm của sự sống là: tất cả các sinh vật sống cho
    thấy là „Hình thái và chức năng của nó được bảo tồn thông qua sự trao đổi năng lượng và trao đổi vật chất
    với môi trường của nó“.
    Sự tiến hóa và sự phong phú của các hình thái sống của vùng sinh thái là một bằng chứng để nói rằng:
    định lý Entropie không đúng đối với hệ thống sống. Theo đó thì dưới tác động của ánh sáng mặt trời, các chu
    trình tự nhiên liên tục đạt được trạng thái cân bằng mới và tuân thủ theo định luật tiến hóa và định luật đào
    thải tự nhiên để đạt được hình thái sống cao hơn. Hình 1.2.2. thể hiện các yếu tố và mối quan hệ quan trọng
    đó của chu trình tự nhiên.
    Câu hỏi quyết định ở đây là: xã hội con người giao phó chức năng gì cho môi trường tự nhiên? Từ đó
    sẽ dẫn dắt các mục tiêu được đặt ra đối với môi trường và các mục tiêu đó chắc chắn là mâu thuẫn với mục
    tiêu kinh tế. Ðó là điều mà ngày nay chúng ta đang nói: sự ô nhiễm môi trường, sự hủy diệt môi trường.
    1.2.3. Về mối tương quan giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái
    Về đặc tính thì kinh tế và sinh thái là hai hệ thống họ hàng gần gũi nhau. Cả hai đều là các hệ thống
    vĩ đại, rất phức hợp và trong đó nó có sự phụ thuộc mà rất khó có thể nhìn thấu suốt được. Cả hai hệ thống
    đều có định luật riêng và cả hai đều khó có thể điều hành trực tiếp được. Sự cân bằng kinh tế cũng rất tế nhị
    và dễ đổ vỡ và nó cũng không khác gì hơn sự cân bằng sinh thái. Hệ thống đó có xu thế tự dao động và có khả
    năng bùng nổ (siêu lạm phát) hay gục đổ (suy thoái, đói kém). Nói tóm lại: kinh tế trong thực chất thì nó không
    có gì khác là một hệ thống sinh thái riêng của nó. Hệ thống đó có hàng triệu, hàng triệu con người và những
    con người đó được chuyên môn hóa cao và những hoạt động của họ phụ thuộc vào nhau bởi nhiều cách
    (Bonus, Holger, Tự nhiên, quyển 12/81).
    Mỗi một doanh nghiệp có chân trong ba hệ thống môi trường của nó, đó là: hệ thống xã hội, hệ thống
    kỹ thuật, hệ thống kinh tế. Ðã đến lúc mà doanh nghiệp phải lưu ý đến hệ thống sinh thái và đưa doanh
    nghiệp vào tổng hệ thống tự nhiên như đã đưa nó vào siêu hệ thống xã hội và kinh tế (Rohn, W. Vượt qua sự
    đe dọa môi trường, T. 96f).
    Mối quan hệ trao đổi của vật chất/ năng lượng và thông tin giữa hệ thống kinh tế xí nghiệp và hệ
    thống xung quanh không chỉ có tác động đến việc đạt được chủ đích của hệ thống . Chủ đích của hệ thống sẽ
    không được khuyến khích bởi hiệu ứng ngoại vi bất lợi (ví dụ như sự phát xạ). Chính trong sự giải thích về
    hành động có hiệu nghiệm đối với môi trường của doanh nghiệp cho thấy là qua bản thân đầu vào và đầu ra
    của nó đã tự làm thay đổi bản thân hệ thống doanh nghiệp và hệ thống xung quanh của nó như nhau.
    Khả năng khai thác và khả năng tiếp nhận của môi trường tự nhiện là có hạn. Hiện nay, song song với
    điều nêu ở trên là sự đòi hỏi đến môi trường cho hai chủ đích trên để có sự tận dụng cạnh tranh. Ví dụ cho nó
    được nêu ở đây là: khai thác sử dụng nước để làm nước uống và làm nước tiêu dùng cũng như để nuôi cá và
    mặt khác để làm phương tiện vận tải và làm môi trường để tiếp nhận nước thải; sử dụng phong cảnh để nghỉ
    ngơi, để làm kinh tế nông nghiệp và trồng rừng và làm nơi chôn lấp phế thải, làm kho chứa chất lỏng và chất
    không phát xạ; không khí để thở và là môi trường để tiếp nhận sự phát xạ.
    Doanh nghiệp lấy đầu vào của mình từ môi trường tự nhiên xung quanh, chuyển hóa bằng sự liên kết
    các yếu tố sản xuất để có đầu ra hợp ý (sản phẩm theo chủ đích của doanh nghiệp) và đầu ra không hợp ý
    (phế liệu, sự phát xạ). Qua đó, cả một loạt các quá trình chuyển hóa vật tư và năng lượng đã được thực hiện.
    Cuối cùng là sau khi sử dụng thì từ một đầu ra hợp lý đã trở thành sự dư thừa của tiêu dùng.
    m t gi i h n m c đ nh t đ nh, có th gi m đi l ng d th a s n xu t và hàng Ơ ộ ớ ạ ứ ộ ấ ị ể ả ượ ư ừ ả ấ tiêu dùng hay là
    lại đưa nó trở lại dòng chảy vật tư và năng lượng.
    Hệ thống
    Sinh thái
    Nguồn tài nguyên Môi trường tiếp nhận các loại
    thiên nhiên dư thừa của sản xuất và tiêu dùng
    Hệ thống Xã hội và Kinh tế
    Thiên nhiên
    là đầu vào Ðầu ra không mong muốn có
    Các yếu tố đầu vào
    khác Ðầu ra mong muốn có
    Hình 1.2.3/1 Mối quan hệ giữa hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
    Mục tiêu sinh thái có thể mâu thuẫn hay không mâu thuẫn với mục tiêu kinh tế. Ðiều có thể có được
    là mục tiêu trung lập. Ví dụ về sự mâu thuẫn về mục tiêu là tất cả các mục tiêu của các quá trình mà người ta
    cho là nó làm „Ô nhiễm môi trường“. Mục tiêu hài hòa (không mâu thuẫn) ngày càng được biết đến. Ví dụ về
    sự hài hòa của mục tiêu kinh tế như „Giảm phí tổn bằng cách giảm chi phí“. Như vậy nó hài hòa với mục tiêu
    sinh thái ở là chỗ „Giữ gìn tài nguyên thiên nhiên“. Giảm phí tổn bằng cách tránh được phế thải và tái tận
    dụng, tăng tối đa doanh thu thông qua các sản phẩm không có tác hại cho môi trường.
    Nhiệm vụ chủ yếu của nền kinh tế định hướng theo sinh thái bao hàm hai hướng công việc chính là:

    thừa
    Dư thừa
    Dư thừa
    Than,
    Dầu mỏ
    Khí đốt
    than
    dầu lửa Năng lượng
    CO2
    SO2 xỉ, phế thải CO
    Năng hữu cơ NO
    lượng Hoá chất
    Xỉ, tro phế liệu
    Tia xạ Năng lượng Tái sinh
    Nhiệt năng lương thực
    vải, sợi
    sản phẩm kim
    loại, giấy v.v
    Phế thải gia đình
    Nhiệt năng Nước thải, phế thải
    Các sản phẩm quang hợp
    Khoáng vật
    Tàng trữ phế thải
    ủ phân bùn,v.v
    Các sản phẩm Nông nghiệp
    Nhiên liệu hoá thạch


    Xử lý nhiệt
    Xử lý phế thải
    Các sản phẩm Nông nghiệp
    Chế biến vật liêu
    Chuyển hoá năng lượng
    Người sử dụng cuối cùng
    Hình 1.2.3 2:
    Dòng chảy vật
    liệu và năng
    lượng
    - Gi m thi u hay gi i h n mâu thu n m c tiêu hi n đang còn t n t i thông ả ể ớ ạ ẫ ụ ệ ồ ạ qua việc thích ứng mục
    tiêu kinh tế và cách thức hoạt động của nó vào nhu cầu sinh thái, đồng thời gây ảnh hưởng và tác động vào lĩnh
    vực sinh thái; ví dụ như: sử dụng các biện pháp nhằm tăng khả năng tái tạo tự nhiên.
    - Phát hiện và khuyến khích mục tiêu hòa hợp bằng công nghệ mới, bằng thực hiện việc đầu tư phù
    hợp với môi trường và bằng việc làm tốt hơn nữa sự chuyển giao công nghệ và trí thức, bằng sự tăng cường
    hệ thống chỉ đạo nền kinh tế thị trường (giá cả là chỉ số cho sự khan hiếm, kể cả cho sản phẩm là môi
    trường).
    1.3. Sinh thái hóa kinh tế
    Tất cả tiền đề lý thuyết và thực tiễn về sự bài trí quá trình kinh tế một cách phù hợp với môi trường
    đều được thâu tóm dưới tiêu đề sinh thái hoá kinh tế. Dưới đó là tất cả mọi sự cố gắng về mặt tổng thể nền
    kinh tế, về các tiền đề kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Hiện nay các tiêu đề thực tiễn chủ yếu đi vào lĩnh vực
    kỹ thuật của đối tượng kinh tế. Cùng với nó là vấn đề công nghệ phù hợp với môi trường, chuyển giao trí
    thức và chuyển giao công nghệ, công nghệ tối thiểu, v.v.
    Sinh thái hoá kinh tế
    Nhà nước là người ban hành Luật
    Nhà nước là thể chế chính trị
    Nhà nước là chủ thể king tế
    -Thăm dò, khuyến khích nghiên cứu
    -Cơ quan môi trường
    -Chuyển giao kiến thức công nghệ
    -Trao nghĩa vụ
    -Bảo chứng
    -Giao nộp
    Ðiều kiện khung
    Mẫu mực
    Giác ngộ
    Kinh tế tư nhân
    Hộ tiêuthụ
    tư nhân
    Sự ảnh hưởng của hành vi
    mua
    Tín hiệu thị trường
    Hành vi mua thay đổi
    Hình 1.3: Xuất phát của sự sinh thái hóa kinh tế
    Ðể thực hiện được chiến lược cải thiện môi trường thì cần có chính sách về các chỉ tiêu môi trường
    thông qua văn bản pháp qui và các hướng dẫn kỹ thuật.Chính sách môi trường và luật pháp môi trường là
    những biện pháp nằm trong nội dung „Sinh thái hóa kinh tế“. Sự chuyển biến trong ý thức giác ngộ về môi
    trường của tất cả những người tham gia vào quá trình kinh tế cũng như sự phát triển và đưa vào ứng dụng
    công nghệ và phương pháp sản xuất mới là điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược về môi trường. Cuối
    cùng là bên cạnh các tầng lớp xã hội còn có sự quan tâm đến môi trường của Nhà nước. Trong chức năng hoạt
    động chính trị của mình, Nhà nước có tác động đến các doanh nghiệp để họ có chính sách tiếp thị nhằm khai
    thác tiềm năng nhu cầu khách hàng định hướng theo môi trường.
    1.4. Kinh tế hóa sinh thái
    Dưới khái niệm „Hệ thống sinh thái“, người ta hiểu đó là cả một hệ thống các quan hệ đan xen với
    nhau của các cấu tử trong hệ thống tự nhiên.
    Như vậy người ta cũng có thể tổng hợp được các nội dung của nó lại và cho nó một khái niệm khác,
    đó là „Làm kinh tế môi trường“ hay „Học thuyết kinh tế môi trường“. (Alfred Endres: Kinh tế môi trường và
    kinh tế tài nguyên thiên nhiên).
    Kinh tế sinh thái
    Làm kinh tế môi trường thông qua
    Kinh tế hoá chính sách môi trường
    Bài trí môi trường thông qua
    Kinh tế nguyên liệu
    Kinh tế Nông lâm
    Kinh tế hàng không
    Kinh tế thuỷ
    Kinh tế phong cảnh
    Phân tích Phí tổn
    Hữu ích
    Cân đối năng lượng
    Ðánh giá hiệu suất
    Công cụ kinh tế thị trường
    Tăng cường các quá trình tự nhiên
    Tao nên thêm những quá trình tự nhiên
    Tạo nên qua trình tự nhiên hoàn toàn mới
    Hình 1.4. Xuất phát điểm của kinh tế hóa sinh thái
    Cũng có cách giải quyết vấn đề này một cách khác, song vấn đề ở đây là có sự trợ lực của các công
    cụ và biện pháp để có sự quan tâm nhiều hơn nữa đến quan điểm mục tiêu sinh thái, cái mà để nó hướng theo
    các tri thức kinh tế. Giá trị của các nguyên tắc kinh tế đối với chính sách môi trường , đối với sự khan hiếm về
    phương tiện, sự lưu ý đến mối tương quan phí tổn và lợi ích cũng như đến tình huống sinh thái. Ðiều đó nó có
    giá trị ở góc độ của sự lựa chọn các công cụ khác nhau và của sự tương quan hóa các yêu cầu của chính sách
    môi trường cũng như của quan điểm mục tiêu. Sự giới thiệu này có thể được gọi dưới tiêu đề „Kinh tế hóa
    chính sách môi trường“.
    Còn có cách giới thiệu nữa là „Kinh tế hóa sinh thái“. Ta hiểu đó là một số chức năng của hệ thống
    sinh thái được tăng cường một cách nhân tạo. Ðiều này có thể xẩy ra với ý đồ kinh tế hay không có ý đồ kinh
    tế. Như vậy thì mục tiêu của các biện pháp đó có thể là tạo ra được những „Không gian tự do“ cho các hoạt
    động kinh tế mà có sự ảnh hưởng đến môi trường. Dưới đó ta có thể hiểu là tất cả các biện pháp nhằm tăng
    cường khả năng hấp thụ và tái tạo của thiên nhiên, (ví dụ như để tiếp nhận sự phát xạ hay để khai thác nguồn
    nước) và qua đó có thể giữ nguyên được hiện trạng hay nâng cao khả năng của nó. Tổng quan lại dưới góc độ
    kinh tế là việc sử dụng có mục tiêu hệ thống thiên nhiên mà vẫn giữ được hay có sự cải thiện được hệ thống
    sinh thái.
    Ví dụ:
    * Tất cả sự tác động vào hệ thống thiên nhiên là nhằm để cải thiện nguồn nước. Việc đó không phải
    chỉ là việc tu bổ, sửa chữa cho việc xâm thực của con người, mà nó còn là một sự „Trợ giúp“ đối với thiên
    nhiên.
    * Các biện pháp làm giầu dưỡng khí cho nước mặt ( ví dụ như làm thác nhân tạo, tăng nhanh dòng
    chảy, v.v.).
    * Bản thân việc nuôi hay cấy gien cũng tạo ra được những đặc tính mới và nó cũng được hiểu là
    „Kinh tế hóa sinh thái“.
    Ơ góc độ lý thuyết khoa học và lịch sử thì cũng cần phải nêu lên lý thuyết sản xuất và lý thuyết giá trị
    của ngành nông học là: chỉ duy có sức mạnh (năng lượng) bên ngoài của thiên nhiên mới là nền tảng của quá
    trình tạo nên giá trị.
    „ Chìa khóa của lý thuyết sản xuất nằm ở trong tư duy, đó là: các phương tiện kinh tế phải được vận
    dụng sao cho thiên nhiên sẵn lòng sản sinh và cung cấp kết quả của nó. Kinh tế hóa tự nhiên sẽ trở thành một
    quá trình tổ chức của sản xuất“ (Immler, Tự nhiên, T. 318).
    1.5. Trên con đ ng hòa gi i gi ườ ả ữa kinh tế và sinh thái
    Không phải chỉ có trên cơ sở các hoạt động mang tính pháp lý và đường lối của Nhà nước, mà hiện
    nay ta đã nhìn thấy sự chuyển biến cơ bản về quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp về vấn đề bảo vệ môi
    trường. Sau giai đoạn ra các luật lệ thì bây giờ đến lúc tăng cường việc thực hiện luật pháp. Ðiều đó đã mang
    lại cho doanh nghiệp những yêu cầu mới trong quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải
    lưu ý nhiều hơn đến mục tiêu môi trường từ những motip nội tại: Bảo vệ môi trường là một cấu thành của hệ
    thống mục tiêu, là cơ hội về thị trường cho sản phẩm phù hợp với môi trường, là sự giảm phí tổn bằng
    phương pháp phù hợp với môi trường, là giảm trách nhiệm bồi thường, là các lý do về danh tiếng v.v.
    Thực chất thì ý kiến của công luận rõ ràng là có khác nhau về mức độ của sự lưu ý đến lợi ích môi
    trường.
    Một điều hiện nay có thể nhận định được là: chủ yếu các doanh nghiệp đang ở trạng thái thụ động;
    nó mang tính chất đối phó trong chính sách môi trường của mình (là việc phải thực hiện các qui định), chủ yếu
    là trong chính sách công nghệ. Cho đến nay vẫn còn thiếu một phương án quản lý khép kín cho lãnh đạo doanh
    nghiệp phù hợp với môi trường để làm cơ sở lâu dài cho chiến lược doanh nghiệp và chiến lược tiếp thị. Qui
    chế Liên minh Châu Âu về Hệ thống quản lý môi trường đã cho một phương án quản lý theo tiêu chuẩn cho sự
    quản lý doanh nghiệp phù hợp với môi trường. Với việc chuyển hóa Qui chế của Liên minh Châu Âu thành
    Luật của Quốc gia trong năm 1995 thì trong tương lai sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ và tích cực của các
    doanh nghiệp theo hướng môi trường.
    Ðối với luận điểm „Giới hạn của sự tăng trưởng“ thì có luận điểm „Tăng trưởng của giới hạn“. Một
    điều cơ bản là: một sự tăng trưởng sản xuất hàng hóa với một sự đòi hỏi đến môi trường không tăng lên hay
    có sự giảm đi là một điều có thể nghĩ đến được. Khai phá tài nguyên mới, thay thế các yếu tố môi trường khan
    hiếm, giảm việc sử dụng vật liệu và năng lượng, tối đa hóa chu trình vật liệu và năng lượng và tránh được sự
    ô nhiễm môi trường. Ðó là những vấn đề kỹ thuật và kinh tế. Ðể giải đáp các vấn đề đó thì có thể chấp nhận
    được luận điểm „Tăng trưởng của giới hạn“. Nhiệm vụ của chính sách môi trường trong tương lai phải là sự
    hiện đại hóa mang tính sinh thái nền kinh tế quốc dân, là sự hòa giải giữa kinh tế và sinh thái; bởi lẽ, có giải
    pháp thay thế cho xã hội công nghiệp, song không có giải pháp thay thế cho môi trường“ (Huber, Josef, Kẻ vô
    tội của sinh thái, T.10).
    Câu hỏi ôn tập Chương I
    1. Nêu những yếu tố tiêu biểu, đặc trưng của hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
    2. Nêu những mối quan hệ tiêu biểu giữa các yếu tố trong hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
    3. Hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái cho thấy những đặc tính gì?
    4. Nêu ví dụ về quá trình sụp đổ và quá trình bung ra trong hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái.
    5. Nêu ví dụ về quá trình động trong hệ thống „Xí nghiệp“ và từ đó hình thành sự thay đổi ( thích ứng) trong hệ
    thống xung quanh, đặc biệt là trong hệ thống xung quanh tự nhiên.
    6. Nêu ví dụ về quá trình động trong „Hệ thống tự nhiên“ và từ đó hình thành sự thay đổi (thích ứng) trong hệ
    thống kinh tế.
    7. Về cơ bản thì hệ thống kinh tế và hệ thống sinh thái có thể xử sự với nhau như thế nào? Nêu một vài ví dụ.
    8. Nêu một số ví dụ về „Kinh tế hóa sinh thái“ và bạn thấy có những khả năng gì?
    9. Hãy nêu ví dụ về“ Sinh thái hóa kinh tế“ và bạn thấy có những khả năng gì?
    10. Hãy bình luận quan điểm chính trị chung về „Sự hòa giải giữa sinh thái và kinh tế“.

    Tài liệu tham khảo
    1. Endres, Alfred „Kinh tế môi trường và kinh tế nguồn tài nguyên“. Darmstadt, 1985
    2.de Haas, Jan- Pelgrom. Quản lý- Triết học trong sự căng thẳng giữa sinh thái và kinh tế. Bergisch Gladbach/
    Kửln 1989
    3. Hempfling, Reinhold. Phân tích mạo hiểm là công cụ để đánh giá sự nguy hại đến môi trường và đến con
    người qua hóa chất môi trường. 1992
    4. Hopfenbeck, Waldemar.Quản lý và tiếp thị định hướng theo môi trường.
    Landsberg/ Lech1990
    5. Immler, Hans. Thiên nhiên trong lý thuyết kinh tế. Opladen 1985
    6. Immler, Hans. Từ giá trị của thiên nhiên. Opladen 1989
    7. Kichgeorg, Manfred. Hành vi doanh nghiệp định hướng theo sinh thái. Wiesbaden 1990
    8. Leipert, Christian.Hậu quả phí tổn về sinh thái của nền kinh tế . Mỹnchen 1992
    9. Oberholz, Andreas. Lãnh đạo doanh nghiệp định hướng theo môi trường. Frankfurt/Main 1990
    10. Pfriem, Reinhard. Chính sách doanh nghiệp trong triển vọng xã hội và sinh thái. Marburg 1995
    11. Simonis, Ernst Udo. Sự chuyển biến cơ cấu của nền kinh tế và sự giải phóng cho môi trường. Trong Steger
    Ulrich:sổ tay BVMT, Mỹnchen1992
    12. Strebel, Heinz. Môi trường và kinh tế xí nghiệp, Môi trường tự nhiên là đối tượng . Mỹnchen 1992
    13. Tiebler, Petra. Xu hướng môi trường trong hành vi tiêu dùng. Mỹnchen 1992
    10. Ulrich, Hans Bern, Doanh nghiệp là một hệ thống xã hội và sản xuất. Bern, Stuttgart 1970
    15. Wagner, Gert Rainer.Doanh nghiệp và môi trường sinh thái. Mỹnchen 1990
    Chương II
    Môi trường là yếu tố sản xuất
    Hệ thống kinh tế
    Hệ thống sinh thái
    Tự trang trải phí tổn về môi trường
    Có xuất hiên hiệu ứng ngoại vi
    Môi trường là tài sản tự do
    Sự khan hiếm định xuất
    Môi trường là tài sản tập thể
    Sự khan hiếm tích tụ
    Ðầu vào thiên nhiên
    Ðầu ra không mong muốn có
    Hay là
    Hay là
    Là môi trường lấy đi
    Là môi trường trở lại


    2.1. Môi tr ng trong thuy t kinh ườ ế điển về sản xuất và phí tổn
    Lý thuyết sản xuất và phí tổn nghiên cứu sự phối hợp các yếu tố sản xuất. Trong thuyết kinh điển
    của hệ thống Gutenberg thì chỉ phân biệt các yếu tố cơ bản là: lao động, phương tiện sản xuất và vật liệu.
    Những suy nghĩ cận đại có đưa thêm các yếu tố khác nữa vào, như: yếu tố công tác tư nhân và yếu tố công tác
    công cộng, yếu tố thông tin, v.v. Môi trường tự nhiên trong hệ thống yếu tố của Gutenberg chỉ được lưu ý
    trong chức năng là người cung cấp tài nguyên thiên nhiên, ví dụ như trong vai trò của yếu tố „Vật liệu“.
    Trong định nghĩa về đặc điểm của một yếu tố sản xuất thì Gutenberg đã nêu là „Không thể thiếu
    được trong việc tạo nên thành tựu“. Ðiều đó đúng với môi trường ở nội dung là nơi khai thác nguyên liệu và
    năng lượng và đúng cả ở nội dung môi trường là nơi tiếp nhận lại các loại phế thải ở các dạng cứng, lỏng,
    khí và tia phóng xạ cũng như tiếng ồn.
    Nguyên nhân của sự không lưu ý đến “Môi trường là một yếu tố sản xuất“ chủ yếu là ở chỗ, đã coi
    môi trường tự nhiên là một sản phẩm tự do. Với quan điểm là: không phải lưu ý đến yếu tố sản xuất, nếu
    như nó không phải là khan hiếm- có nghĩa là nó không có giá trị kinh tế và việc khai thác và việc sử dụng nó
    không gây nên phí tổn cho nền kinh tế xí nghiệp.Vì lẽ đó nên môi trường đã không được đưa vào lý thuyết sản
    xuất và lý thuyết phí tổn.
    Bây giờ thì sự đòi hỏi đến môi trường ngày càng tăng và môi trường đã trở thành một ngành kinh tế
    với sự phí tổn đáng kể. Sự khiếm khuyết trong lý thuyết kinh điển ngày càng được bộc lộ rõ nét. Tuy vậy, vấn
    đề này có thể xử lý được từng phần mà chưa cần đến sự thay đổi về lý thuyết, bởi vì sự đòi hỏi đến môi
    trường được thể hiện bằng việc gia tăng giá cả của các yếu tố sản xuất là „Phương tiện sản xuất“ và là „Vật
    liệu“. Ngay bản thân giá cả của yếu tố sản xuất „Lao động“ cũng có thể chứng minh một cách gián tiếp là
    hiệu ứng „Môi trường“. Ví dụ như: vì lý do ô nhiễm không khí cho nên số người ốm đau tăng và sự đòi hỏi
    của môi trường được thể hiện bằng việc tăng phí tổn trong quĩ lương.
    Ơ đây còn có hiệu ứng ngoại vi được phát sinh. Ðó là việc: người không gây ra sự ô nhiễm không khí
    cũng phải gánh chịu sự tăng phí tổn trong lương. Hiệu ứng này cũng có giá trị đối với các yếu tố sản xuất
    khác, bởi lẽ ở đó cũng có hiệu ứng ngoại vi tác động đến. Giá cả tăng là do các điều kiện môi trường đã đụng
    chạm đến tất cả những người có nhu cầu về“ Ðầu vào“ và nó không phụ thuộc vào mức độ và thể thức của
    sự đòi hỏi đến môi trường mà do các yếu tố Ðầu vào mang lại.
    Hiệu ứng ngoại vi càng lớn thì yêu cầu đòi hỏi của môi trường là một yếu tố sản xuất quyết toán
    được càng tăng, hay nó đi vào sự thay đổi về yếu tố giá cả trong từng ngành kinh tế một lại ít đi. Ðiều này có
    giá trị ở mức độ tối thiểu là: phí tổn ngoại vi của sự đòi hỏi môi trường sẽ được thực hiện theo nguyên tắc
    „Cùng gánh chịu chung“ và nó được phân bổ cho các đối tượng có liên quan. Có một điều không làm được, đó
    là phí tổn ngoại vi của chủ thể kinh tế gây tác động môi trường được phân bổ cho chủ thể kinh tế khác mà từ
    đó nó dẫn đến sự thay đổi về kết cấu phí tổn.
    Ðứng trên bình diện tổng thể của nền kinh tế thì các sản phẩm quan trọng của môi trường đối với
    sản xuất đã từ lâu không còn là sản phẩm tự do nữa. Xong, để nó là một ngành kinh tế thì điều đó còn thiếu
    đặc tính về phí tổn. Chỉ một khi phí tổn cho yêu sách của môi trường được phân bổ theo nguyên tắc „Ai gây
    nên, người đó chịu“ một cách công bằng thì nó mới đem lại sự thay đổi về tư duy trong lý thuyết sản xuất và
    phí tổn. Ðiều đó sẽ được thực hiện một phần bằng sự thay đổi yếu tố giá cả cho các yếu tố cơ bản kinh
    điển. Ngoài ra, cần phải coi môi trường là một yếu tố sản xuất và đưa nó vào lý thuyết sản xuất và phí tổn.
    Khác với tất cả các mô hình về lý thuyết sản xuất và giá trị, thiên nhiên đã được coi là một yếu tố sản
    xuất trong ngành nông nghiệp ở thế kỷ 18. Hans Immler đã dẫn dắt trong sách của mình như sau: “ Ðó là một
    phát minh về lý thuyết kinh tế và kinh tế chính trị của nhà canh nông mà đặc biệt là của Quesnays. Trong
    phương án của họ về kinh tế, họ đã nhìn nhận thấy thiên nhiên là một sức sản xuất. Họ đã khẳng định rằng:
    * Thứ nhất là sức sản xuất của thiên nhiên chính là sức mạnh vật lý và vật chất.
    * Thứ hai là một sự tận dụng có hệ thống và kinh tế sức sản xuất của thiên nhiên đã cho tiền đề để
    hình thành về lý thuyết sản xuất.
    * Thứ ba là sự suy nghĩ về sự bảo tồn và chăm sóc các điều kiện sản xuất thiên nhiên.
    Tất cả các điều đó đã chứng minh cho lý thuyết cơ bản về tái sản xuất vật chất. Nói một cách chặt
    chẽ theo quan điểm của nhà nông thì chỉ có ngoại cảnh tự nhiên mới có thể „Sản sinh ra giá trị mới“; ngắn gọn
    mà nói là: „Thiên nhiên sản xuất và con người hỗ trợ vào“. Chìa khóa cho lý thuyết sản xuất nằm trong sự suy
    nghĩ là: phải sử dụng tất cả các phương tiện kinh tế, sao cho thiên nhiên sẵn sàng sản xuất và cung ứng sản
    phẩm. Kinh tế hóa thiên nhiên sẽ trở thành quá trình tổ chức của sản phẩm“ (Immler, Tự nhiên trong lý thuyết
    kinh tế, trang 318).
    2.2. Môi trường là Ðầu vào
    Việc tiếp nhận các sản phẩm quang hợp và khoáng vật của môi trường thiên nhiên với chủ đích cho
    sự chuyển hóa trong quá trình kinh tế được giới thiệu trong hệ đầu vào kinh điển là vật liệu và phương tiện
    sản xuất. Thế nhưng sự đòi hỏi của môi trường đến yếu tố giá cả được lưu ý đến mức độ nào thì cuối cùng
    cũng đành bỏ ngỏ. Song, có thể mạn phép cho rằng: xu hướng là tuỳ thuộc vào phí tổn trong khai thác và nó
    được coi là mốc thang để tính giá cả chứ không phải là sự dự toán về sự khan hiếm hay thực chất nó là sự đòi
    hỏi của môi trường.
    Việc sử dụng môi trường cho đến nay chủ yếu vẫn không mất tiền (không phí tổn). Chỉ có điều là phí
    tổn cho việc khai thác ngày càng tăng do đã mất sự dồi dào về nguồn dự trữ; phí tổn cao lên do sự điều chỉnh
    đền bù và phần nhiều do các yêu cầu trách nhiệm của các biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn hay giảm
    thiệt hại. Ngoài ra, phí tổn cho đòi hỏi của môi trường là đất, là phong cảnh, là không khí, là nước để tiếp
    nhận phế thải của sản xuất và tiêu dùng. Tất cả các cái đó đã đội yêu cầu lên và với nó là phí tổn. Ví dụ cho
    nó như:
    * Tăng yêu cầu xử lý phế thải rắn (phế thải đặc biệt, kỹ thuật chôn lấp),
    * Tăng yêu cầu về xử lý nước thải (thêm mốc lọc, khử, lệ phí nước)
    * Tăng yêu cầu trong việc lọc khí thoát và chống ồn.
    Tuy vậy, trong khai thác yếu tố đầu vào và trong việc tận dụng môi trường là nơi chốn tiếp nhận các
    loại phế thải vẫn chưa đưa vào sổ sách kế toán được bởi lẽ còn có sự vênh giữa từng vùng lãnh thổ và thậm
    chí giữa các quốc gia.
    2.3. Môi trường là nơi tiếp nhận Ðầu ra
    Trong mục 2.2 đã nêu lên chức năng của môi trường là „Người cung cấp yếu tố đầu vào“, là các
    phương tiện sản xuất và vật liệu, thì đồng thời môi trường cũng làm nhiệm vụ là nơi tiếp nhận đầu ra. Trong
    bảng cân đối về nguyên liệu và năng lượng của quá trình sản xuất trong xí nghiệp thì phế liệu và chất phát xạ
    độc hại là đầu ra. Theo nhận thức về đối tượng của học thuyết kinh tế xí nghiệp thì sự quan sát này trước tiên
    đi thẳng vào danh mục đầu ra không mong muốn có. Ðó là: phế thải ở thể cứng, thể lỏng và thể khí; là tia
    phóng xạ, là tiếng ồn, là sự tỏa nhiệt và sự chấn động. Những cái đó đi liền với việc tạo ra sản phẩm cũng
    như với sự tái tạo giá trị. Trong khi những đầu ra được mong muốn có có thị trường và nó cho doanh thu thì
    những đầu ra không mong muốn có lại phải trả lại cho môi trường tự nhiên.
    Môi trường là nơi tiếp nhận cho đầu ra không mong muốn
    Liên kết
    Biến đổi
    Thị trường là nơi tiếp nhận cho đầu ra mong muốn có
    -Hiệu suất tư nhân
    -Hiệu suất Nhà nước
    -Thông tin
    Các yếu tố cơ bản:
    -Lao động
    -Phương tiện làm việc
    -Vật liệu
    Có mất phí tổn
    Là người cung cấp
    Vật dư thừa trong tiêu dùng
    Phế liệu sản xuất
    Hình 2.3/1: Môi trường là nơi tiếp nhận
    Sự quan sát trên phải được mở rộng dưới góc độ sinh thái. Ngay bản thân việc sử dụng hay tiêu dùng
    đầu ra được mong muốn có cũng tạo nên yêu cầu đối với môi trường, song cái đó cho đến nay phần lớn tuột
    khỏi sự quan sát của kinh tế xí nghiệp, bởi lẽ nó nằm trong phạm trù của người tiêu dùng. Ngày nay nhà sản
    xuất đã dần dần thức tỉnh về trách nhiệm của mình đối với yêu sách của môi trường trong giai đoạn tiêu dùng
    và sau tiêu dùng. Thực chất ra thì giai đoạn tiêu dùng chỉ là thời gian lưu lại tạm thời cho đến lúc mà đầu ra
    được mong muốn có trở thành đầu ra không được mong muốn có.
    Chính trong lĩnh vực này lại thể hiện sự khiếm khuyết lớn nhất trong việc đưa môi trường là một yếu
    tố sản xuất với ý nghĩa là „Không thể thiếu được trong việc tạo nên sản phẩm“. Ðối với đầu ra không được
    mong muốn có tại ngay trong khâu sản xuất và phân phối thì môi trường đã trở thành nơi tiếp nhận cần thiết,
    nhưng nó ngày càng khan hiếm hơn và bản thân đầu ra đó cũng trở thành một sản phẩm mà chi phí của nó cũng
    đáng kể (khâu giải quyết phế liệu, khâu tẩy rửa nước thải). Yêu sách của môi trường đối với đầu ra được
    mong muốn có ở đây chưa được lưu ý đến và nó chưa được phân bổ về phí tổn.
    Ví dụ:
    * Phế thải bao gói trong lĩnh vực tiêu dùng gia đình.
    * Sự phát xạ tất cả các loại (dung môi, thuốc xịt .), mà do sử dụng hàng tiêu dùng gây nên.
    * Tất cả các loại vật dụng được thải ra từ lĩnh vực tiêu dùng dân dụng (từ tủ lạnh đến ô-tô).
    Yêu sách của môi trường bao hàm các lĩnh vực cảnh quản, không khí, đất, nước, sinh vật (trực tiếp và
    gián tiếp). Ơ đây có chiều hướng cho thấy là có sự thay đổi về điều kiện bảo hiểm trên cơ sở luật pháp và sự
    chịu trách nhiệm.
    Môi tr ng là ng i cung ườ ườ ứng cho năng lực tiếp nhận
    Liên kết
    Biến đổi
    Thị trường là nơi tiếp nhận cho đầu ra được mong muốn có
    -Hiệu suất tư nhân
    -Hiệu suất nhà nước
    -Thông tin
    Các yếu tố cơ bản:
    -Lao động
    -Phương tiện làm việc
    -Vật liệu
    -Không khí, nước, đất
    -Sự tái tạo tự nhiên
    -Thới tiết
    -Phong cảnh
    Có mất phí tổn
    Không mất phí tổn
    Là người cung cấp
    Cho vật liệu dư thừa trong tiêu dùng
    Sản phẩm
    <!
    [endif]-->
    Hình 2.3/2: Ð c tính đ u vào c a ặ ầ ủ môi trường là yếu tố sản xuất.
    2.4. Tính đ c tr ng c ặ ư ủa yếu tố sản xuất là môi trường
    * Môi trường là “Sản phẩm tự do”
    ở góc độ kinh tế xí nghiệp thì môi trường được coi là một sản phẩm tự do, nếu như việc sử dụng nó
    không mất phí tổn. Ðiều đó cũng có giá trị, nếu như nó gây nên phí tổn chung cho nền kinh tế và để điều
    chỉnh thiệt hại đó, nó được điều tiết qua thuế và các lệ phí và như vậy, phí tổn được phân bổ lại cho các đối
    tượng chịu thuế và lệ phí. Thế nhưng, như trong mục 2.2 đã giải trình, giá cả của các yếu tố kinh điển cơ
    bản tăng lên với sự khan hiếm của yếu tố môi trường, thì đó là kết quả của quá trình phân bổ phí tổn. Nguyên
    nhân của nó là phí tổn cần thiết để bảo vệ môi trường, như: lệ phí, sự tác động phí tổn theo yêu cầu và phí tổn
    cho sự mạo hiểm ngày càng tăng.
    * Môi trường là Sản phẩm tập thể
    Một thực tế là đại bộ phận sản phẩm môi trường là sản phẩm tập thể. Ðiều đó đã dẫn đến việc: sản
    phẩm đó không chia bôi được và cũng không bán đi được. Người ta có thể tự nguyện tham gia để tạo ra nó.
    Bởi lẽ, người nào cũng có thể sử dụng sản phẩm công cộng đó được, về nguyên tắc không cấm đoán, do đó
    người ta đả sử dụng nó tùy ý mà không cần phải đóng góp về phí tổn. Cũng vì thế cho nên nó không có sự yêu
    cầu và vì vậy nó cũng không có thị trường.
    * Ðặc tính Ðầu vào Môi trường để là nơi tiếp nhận Ðầu ra (mà không mong muốn có)là ở chỗ: sử
    dụng môi trường để tiếp nhận đầu ra không mong muốn có thì trong lý thuyết sản xuất nó đã đặt ra vấn đề
    của yếu tố đầu vào giống như việc sử dụng môi trường để tiếp nhận nguyên liệu hữu cơ và vô cơ và các yêu
    cầu về đất, nước, không khí, và cảnh quan cho sản xuất. Song, cái đó là một tiềm năng có hạn và như vậy, nó
    là một sản phẩm khan hiếm mà cho đến nay người ta đã bỏ qua điều đó. Bên cạnh thực tế là nó không gây nên
    phí tổn cho một ngành kinh tế nào, cho nên người ta đã không nhìn nhận được đặc tính đầu vào của môi
    trường là nơi tiếp nhận không thể bỏ qua được đối với phế thải của sản xuất và tiêu dùng.
    * Môi trường là yếu tố tiêu dùng và là yếu tố tiềm năng?
    Yếu tố tiêu dùng của môi trường bị mất đi đặc tính là một sản phẩm độc lập với quá trình chuyển
    hóa của nó. Yếu tố tiềm năng của môi trường sẽ mất đi giá trị từ thời điểm nó được chuẩn bị và qua quy trình
    thời gian. Sự đòi hỏi về môi trường chỉ có trong sản xuất hay trong tiêu dùng và có khả năng tránh né được
    từng phần, nếu như đầu vào tuy có tác hại cho môi trường, song bằng các biện pháp thích hợp (như tái sinh,
    chuyển hóa) các yếu tố tác hại đó không bị thất thoát ra môi trường tự nhiên. Sự phân loại môi trường là yếu
    tố sản xuất như vậy cũng còn phải kiểm định lại và phân hóa lại. Phân tích tài nguyên thiên nhiên theo góc độ
    tiềm năng thì người ta đã đến một kết luận là: có nhiều tiêu chuẩn cho yếu tố tiềm năng đã đạt được (không
    phân chia được, không vận động, có giới hạn, sử dụng thay thế được).
    * Sự khan hiếm định xuất và sự khan hiếm tích tụ: một vấn đề tiêu biểu của việc coi môi trường là
    một yếu tố sản xuất (kể cả khía cạnh là nơi cung cấp đầu vào và cả khía cạnh là nơi tiếp nhận đầu ra) là có
    nhiều hình thái khác nhau về sự khan hiếm. Nguyên liệu tái tạo được (như cây và con) cho thấy sự khan hiếm
    về định xuất. Ðiều đó có nghĩa là: nhu cầu đòi hỏi về mặt môi trường được coi là có vấn đề, một khi định
    xuất khai thác thường xuyên vượt định mức tái tạo. Ðiều đó cũng có giá trị đối với môi trường là nơi thu nhận
    lại đầu ra không mong muốn có, ví dụ: đất, không khí và nước chỉ có khả năng hấp thụ nhất định về một số
    loại ô nhiễm. Nếu như định xuất ô nhiễm không bị vượt giới hạn thì nó vẫn chưa bị ô nhiễm vĩnh cửu, mặc
    dù có sự ô nhiễm môi trường. Trong trường hợp đó thì môi trường vẫn là yếu tố sản xuất không thể bỏ qua
    được và nó không gây nên phí tổn gì cho nền kinh tế chung hay cho từng đơn vị kinh tế lẻ. Chỉ một khi sự ô
    nhiễm vượt quá ngưỡng định suất khai thác hay định suất tiếp nhận, có nghĩa là vượt quá khả năng tái tạo và
    hấp thụ của môi trường tự nhiên, thì nó mới gây nên sự phí tổn về sự khan hiếm. Ví dụ như: khai thác gỗ trong
    rừng, chất thải hữu cơ trong nước và đất, đánh bắt cá, săn bắn v.v.
    Khác với sự khan hiếm định suất là sự đòi hỏi đối với môi trường mà trong đó, sự tái tạo tự nhiên chỉ
    có thể thực hiên được trong một khoảng thời gian rất dài và cũng có khi là không thực hiện được. Trong sự
    khan hiếm tích tụ thì sự đòi hỏi của môi trường có khác và về bản chất của nó là một quá trình không tái tạo
    lại được. Ví dụ ở đây là việc khai thác nguyên liệu khoáng vật và nguyên liệu quanh hợp (kim loại, dầu mỏ,
    than). Khi trả lại tự nhiên những chất thải thì trong đó có chất độc hại như: kim loại nặng, tia xạ, chất FCK
    v.v.
    2.5. Cơ sở khối lượng và giá trị của yếu tố sản xuất là môi truờng
    Việc đưa môi trường là yếu tố sản xuất độc lập vào khuôn khổ của lý thuyết sản xuất và phí tổn cần
    thiết phải có sự xem xét tách bạch và tổng hợp về tính phụ thuộc của nó. Trong đó cần đặc biệt lưu ý đến:
    - H s ph th i: là kh i l ng ph th i v nguyên li u trên m t đ n v s ệ ố ế ả ố ượ ế ả ề ệ ộ ơ ị ản phẩm, trong đó phân loại
    ra phế thải theo đặc tính nguy hiểm của nó đối với môi trường.
    - Ðịnh suất tái sinh: là khối lượng phế thải tính trên một đơn vị sản phẩm có thể tái sinh được. Ở đây
    có lưu ý đến sự ô nhiễm môi trường do việc tái sinh tự gây nên.
    - Ðịnh suất chuyển hóa: là khối lượng phế thải gây ô nhiễm môi trường mà qua xử lý thì về mặt sinh
    thái không có vấn đề gì nữa, hoặc chỉ còn có ít chất độc hại mà có thể chuyển hóa được.
    - Hệ số phát xạ: là khối lượng phế thải sau khi đã tái tạo và chuyển hoá còn dư lại; nó được phân
    định theo thể loại ô nhiễm môi trường.
    Những mối liên quan được nêu lên ở đây là cơ sở cho sự liên kết của ô nhiễm môi trường
    qua phế thải và sự phát xạ tương ứng. Ðây là vấn đề cần được nghiên cứu kỹ. Cơ sở khối lượng của
    việc tiêu phí môi trường qua sự phát xạ có thể nằm trong vấn đề:
    - Nhu cầu chôn lấp chất thải rắn,
    - Khối lượng khí thải,
    - Thoát khí hay thoát nước thải với độ ô nhiễm khác nhau,
    - Tỏa nhiệt, thoát nhiệt,
    - v.v.
    Những đại lượng nêu lên ở trên cho thấy các thể loại và mức độ của cơ sở khối lượng. Nó được định
    mức trên một đơn vị sản phẩm. Như vậy, nó là cơ sở để tính phí tổn cho nhu cầu đối với môi trường cho đầu
    ra của sản xuất. Sự quan sát này không chỉ dành riêng cho quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm mà nó
    còn bao hàm cả quá trình sử dụng mà có liên quan đến đòi hỏi về môi trường. Yếu tố sản xuất là môi trường
    sẽ ảnh hưởng đến quyết định của từng đơn vị kinh tế riêng lẻ, một khi nó liên quan đến phí tổn của doanh
    nghiệp trên cơ sở đòi hỏi của môi trường về khối lượng phế thải. Qui định về phí tổn cho yêu cầu của môi
    trường hiện nay đang gặp phải giới hạn eo hẹp. Việc thực hiện nguyên tắc „Ai gây nên thì người đó chịu“- là
    điều kiện cơ bản, đã bị thất bại, không phải là vì nó quá khó khăn về nguyên lý (do thiếu kiến thức về mối
    tương quan nguyên nhân- tác dụng, về vấn đề phân loại, hay về vấn đề đánh giá v.v.) mà là nó bị chống đối về
    mặt chính trị. Có thể cần phải nghiên cứu tính hữu hiệu của giá cả thị trường cho các yếu tố cơ bản mà nó có
    tính đến đòi hỏi của môi trường và đồng thời, với một giá trị như thế nào để có thể thoả mãn được sự đòi hỏi
    của môi trường. Về vấn đề này thì cho đến nay chưa thấy có nghiên cứu về mặt lý thuyết. Tiền đề của quy
    định về phí tổn cho sự đòi hỏi về môi trường có thể là:
    - Qui nộp (nó sẽ dẫn đến mục „Lệ phí“, ví dụ như qui nộp về nước thải),
    - Hoạt động theo chứng chỉ môi trường,
    - Kế toán sinh thái làm cơ sở cho việc đánh thuế,
    - Luật về sự Chịu trách nhiệm khi có tổn thất về môi trường.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...