Tiểu Luận Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI; Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Tỉnh Điện Biên

    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Thực hiện chủ chương của Đảng, Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân đang được xây dựng. Hướng tới các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam, giáo dục pháp luật cho toàn thể nhân dân và đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương là hết sức cần thiết, bảo đảm để pháp luật được tôn trọng và thực hiện.
    Trên cơ sở nguyên tắc Nhà nước quản lư xă hội bằng pháp luật, cùng với việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ. Nhà nước đă tiến hành nhiều biện pháp nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng. Một trong những biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt là giáo dục pháp luật. Với tác dụng h́nh thành một cách bền vững ư thức tôn trọng pháp luật, góp phần nâng cao văn hóa pháp lư của các chủ thể mà đặc biệt là cán bộ, công chức - những người thay mặt Nhà nước giải quyết các công việc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đă chỉ rơ “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng “ [32; tr 269].
    Xă là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân.
    Cán bộ là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng, củng cố chính quyền cấp xă yêu cầu đặt ra là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực phẩm chất đạo đức, nắm vững đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Giáo dục pháp luật có ư nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả hoạt động của cán bộ cấp xă, giúp họ vận dụng pháp luật trong quá tŕnh thực hiện chức năng nhiệm vụ của ḿnh.
    Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giáo dục pháp luật trong những năm qua: “Chưa được đặt ngang tầm với yêu cầu quản lư xă hội bằng pháp luật, chưa được tiến hành thường xuyên liên tục, đồng bộ rộng khắp, chưa có trọng tâm, trọng điểm, c̣n thiếu cơ chế kế hoạch phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức, giữa các cấp các ngành để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự tham gia của toàn xă hội” [48; tr1].
    Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xă, phường, thị trấn đă xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động Nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tôn trọng với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lư và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở [26; Tr167-168].
    Điện Biên là một tỉnh miền núi Tây bắc có 21 dân tộc anh, em (chiếm hơn 80% dân số). Mặc dù là tỉnh miền núi có điều kiện kinh tế xă hội c̣n nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ, tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh luôn quan tâm đến công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân trong tỉnh nói chung và cho đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xă nói riêng. Song việc giáo dục pháp luật cho cán bộ,công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên hiện nay vẫn c̣n bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập chưa phù hợp với đặc thù của một tỉnh miền núi. Việc chấp hành và áp dụng pháp luật chưa nghiêm, do tŕnh độ nhận thức pháp luật của cán bộ, công chức chính quyền cấp xă c̣n thấp. Xuất phát từ yêu cầu tăng cường đổi mới giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức pháp luật của cán bộ, công chức chính quyền cấp xă. Học viên đă chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên” làm luận văn Thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành lư luận về Nhà nước và pháp luật, mă số 60 38 01.
    2. T́nh h́nh nghiên cứu liên quan đến đề tài:
    Vấn đề giáo dục pháp luật cho đến nay luân là mối quan tâm của các cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan xây dựng, bảo vệ và thực thi pháp luật. Tất cả những công tŕnh đă được nghiên cứu góp phần không nhỏ tạo nên bức tranh hiện thực về sự hiểu biết pháp luật, giáo dục pháp luật, nâng cao ư thức pháp luật và lối sống theo pháp luật của con người và xă hội Việt Nam thời kỳ đổi mới. Các công tŕnh đă được nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau về giáo dục pháp luật bao gồm:
    - Một số vấn đề lư luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp, 1994.
    - Một số vấn đề lư luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong thời kỳ đổi mới, đề tài khoa học cấp Bộ, MS 92-98-223-ĐT của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lư, Bộ Tư pháp.
    - Bàn về giáo dục pháp luật của Trần Ngọc Đường và Dương Thị Thanh Mai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nộ 1995.
    - T́m kiếm mô h́nh phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp 1995.
    - Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, luận án PTS của Dương Thị Thanh Mai 1996.
    - Giáo dục pháp luật trong các trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay, luận án PTS của Đinh Xuân Thảo 1996.
    - Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khơ Me nam bộ, Luận văn Th.S Luật học của Lê Văn Bền, 1998.
    - Xây dựng ư thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do TSKH Đào Trí Úc chủ biên, năm 2/002.
    - Giáo dục pháp luật cho cán bộ Chính quyền cấp xă ở tỉnh Đắc Lắc hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Đỗ Văn Dương, 2002.
    - Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh B́nh Định -Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Văn Trầm, 2002.
    - Giáo dục pháp luật cho cán bộ chính quyền cấp xă ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Cao Thị Hà, 2003.
    - Giáo dục pháp luật cho nông dân tỉnh Thái B́nh trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Trung Thành, 2004.
    - Thực hiện chương tŕnh giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay, luận văn thạc sỹ luật học của Ngô Quốc Dụng, 2006.
    - Giáo dục pháp luật trong các trường Trung cấp chuyên nghiệp từ thực tiễn tại tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sỹ luật học của Lưu Quang Vũ, 2006.
    - Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức tỉnh Thái B́nh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thị Nụ, 2007.
    - Giáo dục pháp luật cho cán bộ,công chức nghành thể dục thể thao ở Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Xuân Thập, 2008.
    - Giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn trên địa bàn Tỉnh Hưng Yên, Luận văn Th.S luật của Đinh Thị Hương, 2008.
    - Giáo dục pháp luật về Quốc pḥng cho cán bộ- chiến sỹ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Hoàng Huy, 2008.
    Mặc dù có nhiều công tŕnh nghiên cứu liên quan đến vấn đề giáo dục pháp luật, nhưng cho đến nay chưa có công tŕnh nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện cả về lư luận và thực tiễn giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
    3.1. Mục đích nghiên cứu:
    Luận văn được thực hiện với mục đích nghiên cứu, đánh giá thực trạng, vấn đề xuất phương hướng, giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên hiện nay.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
    Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
    - Trên cơ sở khái quát những vấn đề có tính chất lư luận chung về giáo dục pháp luật, phân tích những đặc thù về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă .
    - Phân tích đánh, giá thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức, chính quyền của Tỉnh Điện Biên, từ đó rút ra những nguyên nhân của thực trạng này.
    - Nêu quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên.
    4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
    - Đối tượng: Cán bộ, công chức làm việc tại các cơ quan nhà nước cấp xă trên địa bàn tỉnh Điện Biên
    - Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề giáo dục pháp luật cho đối tượng cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên, thời gian nghiên cứu là 5 năm (từ năm 2004 đến 2008).
    5. Cơ sở lư luận và phương pháp nghiên cứu:
    Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lư luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng.
    Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, điều tra xă hội học
    6. Đóng góp khoa học của luận văn:
    - Luận văn là công tŕnh chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, chuyên sâu về giáo dục pháp luật cho một nhóm đối tượng cụ thể là cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở tỉnh Điện Biên.
    - Luận văn bước đầu làm rơ được tính đặc thù, mục đích chung, h́nh thức và phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă. Điều đó đă góp phần làm phong phú thêm kho tàng lư luận về giáo dục pháp luật.
    Luận văn đă phân, đánh giá khá toàn diện thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở đó, nêu quan điểm và giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xă ở Tỉnh Điện Biên.
    7. Ư nghĩa lư luận và thực tiễn của luận văn
    Về mặt lư luận:
    Luận văn góp phần vào việc bổ sung những vấn đề mang tính lư luận chung của khoa học pháp lư về giáo dục pháp luật cho một nhóm đối tượng cụ thể.
    Về mặt thực tiễn:
    Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoàn thiện các chương tŕnh giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xă miền núi Tây Bắc nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng. Đồng thời, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ địa phương và những ai quan tâm đến vấn đề này.
    8. Kết cấu của luận văn:
    Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung luận văn được tŕnh bày thành 3 chương 7 tiết.





    Chương 1
    LƯ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XĂ

    1. 1. LƯ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
    1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật:
    Ở Việt Nam ta hiện nay vẫn c̣n những quan điểm khác nhau về giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật có thể được quan niệm như một hoạt động gắn liền với việc triển khai thực tiễn áp dụng pháp luật. Có quan điểm lại coi giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Theo đó chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tự khắc sẽ có được “sản phẩm phụ” là một công dân với ư thức pháp luật cao. Có quan niệm đồng nhất giáo dục pháp luật với hoạt động tuyên truyền phổ biến, giải thích pháp luật. Quan niệm khác cho rằng, không có giáo dục pháp luật v́ pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, nên việc tuân theo pháp luật là bắt buộc đối với mọi người.
    Sự nhận thức nhau về giáo dục pháp luật đă ảnh hưởng tới hiệu quả công tác giáo dục pháp luật. Quan niệm về giáo dục pháp luật phải xuất phát từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm. Thuật ngữ giáo dục được hiểu theo hai nghĩa:
    - Theo nghĩa rộng: Giáo dục là sự ảnh hưởng tác động của những điều kiện khách quan như chế độ xă hội, tŕnh độ phát triển kinh tế, môi trường sống và của những nhân tố chủ quan như tác động tự giác, có chủ định và định hướng của con người nhằm h́nh thành những phẩm chất kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
    - Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là quá tŕnh tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh sản xuất, những tri thức tự nhiên xă hội và tư duy để học có đầy đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xă hội. Theo từ điển tiếng Việt năm 2005 của Viện Ngôn ngữ học “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” (61.tr. 394).
    Không thể phủ nhận được tác động của các điều kiện khách quan đến sự h́nh thành ư thức cá nhân của con người. Tuy vậy, lư luận khoa học sư phạm nhấn mạnh tác động hàng đầu và quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. V́ vậy, khái niệm giáo dục thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
    Giáo dục pháp luật là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, đồng thời có những nét đặc thù riêng.
    Giáo dục pháp luật được nhiều nhà khoa học tiếp cận theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục. Hướng tiếp cận này xuất phát từ:
    Thứ nhất: Mặc dù sự h́nh thành ư thức con người là quá tŕnh chụi ảnh hưởng, tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, nhưng coi giáo dục pháp luật như là một nhân tố tác động th́ mới xác định rơ được các yếu tố của quá tŕnh giáo dục pháp luật như chủ thể giáo dục pháp luật, đối tượng giáo dục pháp luật, nội dung h́nh thức giáo dục pháp luật . để từ đó giữ vững định hướng và nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật khi gặp những trở ngại khách quan.
    Thứ hai: Tiếp cận giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp c̣n có ư nghĩa trong việc phân biệt 2 phạm trù giáo dục pháp luật và ư thức pháp luật Hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch, về nội dung chương tŕnh. C̣n sự h́nh thành ư thức pháp luật là sản phẩm của cả điều kiện khách quan lẫn sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan. Giáo dục pháp luật là nhân tố tác động đối với sự h́nh thành ư thức pháp luật.
    Thứ ba: Tiếp cận giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của giáo dục pháp luật trong khoa học sư phạm cho thấy rơ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Tính đặc thù của giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục thể hiện ở mục đích riêng, đó là h́nh thành tri thức, t́nh cảm và thói quen xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật.
    Từ sự phân tích như trên, có thể xác định khái niệm giáo dục pháp luật như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động, có tổ chức, có mục đích của chủ thể giáo dục được thể hiện để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng t́nh cảm và định hướng hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm h́nh thành ở họ ư thức, t́nh cảm pháp luật đúng đắn, thói quen tuân thủ pháp luật và tham gia tích cực vào các hoạt động pháp lư.
    1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật:
    Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố cấu trúc thuộc bên trong của giáo dục pháp luật và giúp phân biệt giáo dục pháp luật với các dạng giáo dục khác. Đồng thời, là cơ sở cho việc xác định nội dung, h́nh thức, phương pháp của giáo dục pháp luật phù hợp với từng chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật. Trong khoa học pháp lư, mục đích của giáo dục pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh sau:
    Mục đích nhận thức: Nhằm cung cấp và từng bước mở rộng tri thức pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lư của chủ thể được giáo dục. Đây là mục đích hàng đầu, bởi chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng về giá trị xă hội và vai tṛ điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để h́nh thành t́nh cảm và ḷng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật c̣n giúp cho mỗi con người tổ chức một cách có ư thức hoạt động của ḿnh và tự đánh giá, kiểm tra, đối chiếu với các chuẩn mực của pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà sự hiểu biết pháp luật của nhân dân và cán bộ c̣n ở mức thấp. Đặc biệt là những vùng cao, vùng biên giới vùng đồng bào dân tộc ít người chiếm đa số c̣n chịu ảnh hưởng nặng nề của các tập quán cổ hủ, lạc hậu, cán bộ chính quyền cấp xă xử lư công việc phần lớn dựa vào kinh nghiệm và t́nh cảm mà không phải căn cứ vào pháp luật. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật chưa được coi trọng dẫn đến t́nh trạng kỷ cương phép nước chưa nghiêm, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước chưa cao, làm giảm hiệu lực của pháp luật.
    - Mục đích cảm xúc: Nhằm h́nh thành t́nh cảm và ḷng tin đối với pháp luật. Mục đích này hết sức quan trọng v́ nếu có tri thức pháp luật mà không có t́nh cảm tôn trọng và ḷng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật th́ thường dẫn đến con người dễ hành động lệch khỏi các chuẩn mực của pháp luật mà Nhà nước đă đề ra. Mục đích xúc cảm của pháp luật bao gồm việc giáo dục t́nh cảm công bằng và trách nhiệm, t́nh cảm không khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật và tinh thần pháp chế. Tất cả những t́nh cảm này có quan hệ và phụ thuộc vào nhau.
    - Giáo dục t́nh cảm công bằng đó là giáo dục cho con người biết đánh giá hành vi đúng, sai, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với cái sai, điều chỉnh hành vi của chính ḿnh theo các quy phạm pháp luật.
    Giáo dục t́nh cảm trách nhiệm đó là quá tŕnh làm cho một người ư thức được những nghĩa vụ pháp lư cơ bản của ḿnh, thực hiện những hành vi theo yêu cầu của pháp luật.
    Giáo dục t́nh cảm không khoan nhượng được những hành vi vi phạm pháp luật đóng vai tṛ quan trọng trong việc h́nh thành ư thức pháp luật của cá nhân
    Giáo dục t́nh cảm pháp chế hướng vào việc h́nh thành ư thức tuôn thủ pháp luật. Điều đó có nghĩa là người được giáo dục phải ư thức được rằng mọi quyết định của ḿnh phải dựa vào cơ sở của pháp luật. T́nh cảm pháp chế phát triển sẽ giúp con người chống lại được những vi phạm pháp luật bằng sự lên án các vi phạm ấy.
    - Mục đích giáo dục pháp luật nhằm h́nh thành động cơ hành vi và thói quen xử sự hợp pháp. Trong các mục đích giáo dục pháp luật động cơ và hành vi tích cực pháp luật có ư nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi suy cho cùng cái đích của giáo dục pháp luật phải được thể hiện ở hành vi xử sự theo pháp luật của con người. Những mục đích về nhận thức và t́nh cảm nói trên là để phục vụ cho mục đích h́nh thành động cơ. Do vậy, cung cấp tri thức, giáo dục ḷng tin sâu sắc và sự cần thiết tuôn theo một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là những yếu tố rất quan trọng nhằm h́nh thành động cơ và hành vi hợp pháp. Những t́nh cảm công bằng, b́nh đẳng ư thức trách nhiệm, và không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật là những yếu tố tâm lư, tư tưởng không tách rời với việc h́nh thành động cơ và hành vi hợp pháp và tích cực. Nhờ vào những thôi thúc nội tâm, những t́nh cảm ḷng tin vững chắc vào pháp luật ở con người mới h́nh thành động cơ, hành vi hợp pháp, tích cực
    Để đạt được mục đích h́nh thành động cơ và hành vi hợp pháp tích cực chỉ có thể nhờ vào quá tŕnh giáo dục pháp luật một cách kiên tŕ, bằng nhiều h́nh thức, phương pháp để mọi người hiểu biết một cách sâu sắc về sự cần thiết, hợp lư và lợi ích của mệnh lệnh pháp luật đối với xă hội nói chung cũng như đối với tất cả các thành viên xă hội. Sự tuân thủ và tôn trọng pháp luật trở thành thói quen trong đại bộ phận các bộ phận các trường hợp là kết quả của sự ư thức sâu sắc và lập dị lặp lại nhiều lần trong những hoàn cảnh pháp luật tương tự nhau.
    Như vậy, giáo dục pháp luật có ba mục đích cụ thể, giữa các mục đích có sự đan xen quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ từ nhận thức đến tự giác, từ tự giác đến tích cực, từ tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. V́ vậy khi tiến hành giáo dục pháp luật phải hướng hoạt động giáo dục pháp luật vào cả ba mục đích trên. Tuy nhiên để đạt được những mục đích đó cần phải cân nhắc, tính toán, lựa chọn từng mục đích để có các h́nh thức và phương pháp giáo dục pháp luật thích hợp cho từng đối tượng cụ thể.
    1.1.3. Chủ thể của giáo dục pháp luật:
    Trong khoa học pháp lư chủ thể giáo dục pháp luật được hiểu theo hai nghĩa:
    Nghĩa rộng: là tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá tŕnh giáo dục pháp luật.
    Nghĩa hẹp: là con người cụ thể có năng lực pháp luật, có tŕnh độ chuyên môn, có lập trường chính trị vững vàng, đạo đức nhân cách.
    Theo nghĩa hẹp th́ chủ thể giáo dục pháp luật có hai loại, đó là:
    Chủ thể chuyên nghiệp: là những người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là giáo dục pháp luật, trực tiếp thực hiện giáo dục pháp luật như các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, giảng viên pháp luật trong các nhà trường, cán bộ chỉ đạo ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xă hội Đây là những chủ thể quan trọng và chủ yếu của giáo dục pháp luật.
    Chủ thể không chuyên nghiệp: là những cá nhân và tổ chức tuy chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật nhưng thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của ḿnh đă tham gia tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu, nội dung của giáo dục pháp luật. Những người này bao gồm: đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, các cán bộ của các cơ quan hành pháp, tư pháp, những người làm công tác trợ giúp tư vấn pháp luật .
    Ngoài hai chủ thể trên chủ thể của giáo dục pháp luật c̣n là các công dân, bằng sự tôn trọng giáo dục, bằng ư thức trách nhiệm và gương mẫu thực hiện pháp luật mà có ảnh hưởng đến các công dân khác trong xă hội.
    1.1.4. Đối tượng của giáo dục pháp luật:
    Đối tượng của giáo dục pháp luật là các cá nhân, công dân hay nhóm cộng đồng công dân, tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đề ra.
    Ở Việt Nam hiện nay, đối tượng giáo dục pháp luật nói chung là mọi công dân, tuy nhiên cần phải phân loại đối tượng giáo dục để có các nội dung, h́nh thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp để đạt được các mục tiêu của hoạt động giáo dục pháp luật. Có thể chia đối tượng giáo dục pháp luật thành những loại như sau:
    Đối tượng giáo dục pháp luật là cán bộ, công chức nhà nước. Loại đối tượng này có đặc điểm là theo chức năng, nhiệm vụ của ḿnh họ vừa là đối tượng cần được giáo dục pháp luật tức là cần được trang bị những kiến thức cơ bản về hệ thống pháp luật các ngành luật, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quy chế hoạt động, tŕnh tự thủ tục, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước mà họ đang làm việc, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và thái độ tôn trọng pháp luật, đảm bảo pháp chế khi thi hành công vụ Đồng thời, họ vừa là chủ thể giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với nhân dân thông qua việc họ giải thích và áp dụng điều luật để giải quyết các công việc cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội. Từ đó tác động đến t́nh cảm, ḷng tin và cách ứng xử của đông đảo quần chúng nhân dân lao động nơi họ sinh sống và làm việc.
    Đối tượng giáo dục pháp luật là các chủ Doanh nghiệp, người quản lư kinh tế ở các thành phần kinh tế khác nhau.
    Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lănh đạo, đất nước ta đă đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xă hội. Đặc biệt là trong phát triển kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lư Nhà nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế b́nh đẳng với nhau.
    Hệ thống pháp luật kinh doanh, thương mại, dân sự đă và đang từng bước được hoàn thiện nhằm tạo ra nhữngkhung pháp lư phù hợp, tạo môi trường kinh doanh phù hợp cho những loại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Thực tế đă chứng minh nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn c̣n những hạn chế, đáng kể như hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp c̣n mang tính tự phát, thiếu trật tự kỷ cương, nhiều mặt trái của nền kinh tế thị trường không ngừng phát sinh như: nạn tham ô buôn lậu, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, ô nhiễm môi trường chưa được ngăn chặn, khắc phục một cách triệt để gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
    Để khắc phục t́nh trạng nêu trên, Nhà nước phải không ngừng xây dựng mới, bổ sung, loại bỏ những văn bản không c̣n phù hợp để có một hệ thống pháp luật kinh doanh hoàn chỉnh cả về nội dung và h́nh thức, đồng thời, thường xuyên giáo dục pháp luật để các doanh nghiệp nắm vững các quy định của pháp luật chuyên ngành, pháp luật về kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế .
    Đối tượng giáo dục pháp luật là học sinh, sinh viên: Học sinh, sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, ngoài việc đào tạo các ngành nghề chuyên môn th́ việc giáo dục ư thức pháp luật đây là việc rất quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xă hội th́ các tệ nạn xă hội cũng xâm nhập và gia tăng như lối sống thực dụng, sống gấp, các tṛ chơi bạo lực, sex, ma túy, mại dâm . Do đặc điểm về tâm sinh lư học sinh, sinh viên là đối tượng dễ chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xă hội. V́ thế, giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên cần dựa theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề đào tạo, bằng nhiều h́nh thức, trong đó chú ư giảng dạy pháp luật ở các trường học.
    Đối tượng giáo dục pháp luật là các tầng lớp nhân dân. Đây là đối tượng đông đảo nhất trong xă hội. Khi giáo dục pháp luật cho đối tượng này cần dựa vào đặc điểm lứa tuổi giới tính, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống. Đặc biệt là nhóm người cần được Nhà nước quan tâm bảo vệ như phụ nữ và trẻ em.
    1.1.5. Nội dung của giáo dục pháp luật:
    Một trong những yếu tố quan trọng của quá tŕnh giáo dục pháp luật là nội dung giáo dục pháp luật. Nội dung của giáo dục pháp luật được xác định trên cơ sở mục đích, đối tượng giáo dục pháp luật nhằm h́nh thành họ hệ thống tri thức pháp luật, t́nh cảm ḷng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
    Nội dung của giáo dục pháp luật là sự cụ thể hóa mục đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật chúng ta có thể chia giáo dục pháp luật theo ba mức độ sau:
    Thứ nhất: Mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật, phổ cập cho mọi công dân: Trong giai đoạn hiện nay khi mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước quản lư xă hội bằng pháp luật, hiện các quyền, lợi ích của ḿnh cũng như thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà th́ mỗi công dân phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật. V́ vậy, giáo dục pháp luật phổ cập cho công dân nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật, giúp họ h́nh thành những tri thức cơ bản về pháp luật và thói quen xử sự theo pháp luật.
    Thứ hai: Mức độ giáo dục theo yêu cầu của ngành nghề là giáo dục pháp luật cho những người hoạt động ở trong những lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xă hội khác nhau. Ngoài việc giáo dục những khái niệm pháp lư cơ bản, cần giáo dục pháp luật có nội dung liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng, các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động của họ và tŕnh tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp.
    Thứ ba: Giáo dục luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp luật. Đây là mức độ cao nhất, được thực hiện nhằm mục đích đào tạo các chuyên gia pháp luật cho bộ máy nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xă hội Sự hiểu biết của đối tượng này bao gồm những tri thức pháp luật mang tính chuyên sâu về các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
    1.1.6. H́nh thức của giáo dục pháp luật:
    Nếu như chỉ có nội dung giáo dục tốt mà không có một h́nh thức giáo dục pháp luật phù hợp th́ mục đích của giáo dục pháp luật không đạt được như mong muốn.
    Trên cơ sở khái niệm này cho thấy h́nh thức giáo dục pháp luật chính là h́nh thức tổ chức hoạt động phù hợp giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục pháp luật, được quy định bởi nội dung và mục đích giáo dục pháp luật.
    H́nh thức giáo dục pháp luật được chia làm hai loại: H́nh thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến truyền thống, được thực hiện trực tiếp giữa chủ thể giáo dục pháp luật với đối tượng như: nói chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà nước, địa bàn dân cư, hội nghị, hội thảo pháp luật hoặc thông qua các phương tiện thông tin như báo chí, đài phát thanh, các cuộc thi t́m hiểu pháp luật, thông tin cổ động. H́nh thức giáo dục pháp luật mang tính đặc thù là gắn hoạt động giáo dục pháp luật thông qua hoạt động lập pháp, h́nh pháp, tư pháp của các cơ quan của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Ṭa án, Viện kiểm sát. H́nh thức này được thực hiện bởi các chủ thể là công chức nhà nước, các luật gia, hoặc các luật sư đang công tác tại các tổ chức nghề nghiệp.
    1.1.7. Phương pháp giáo dục pháp luật.
    Phương pháp giáo dục nói chung dưới góc độ lư luận học giáo dục được hiểu là cách thức, biện pháp sử dụng để truyền đạt và lĩnh hội của nhà giáo dục nhằm đạt đến mục đích giáo dục.
    Trên cơ sở quan niệm này phương pháp giáo dục pháp luật được hiểu là tổng thể cách thức, biện pháp mà chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật sử dụng để nhằm thỏa măn mục đích truyền đạt và lĩnh hội nội dung giáo dục pháp luật.
    Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà c̣n phụ thuộc vào phương pháp giáo dục pháp luật. Bởi v́, để chuyển tải được nội dung giáo dục pháp luật đ̣i hỏi chủ thể giáo dục pháp luật phải có cách thức, biện pháp tác động phù hợp với khả năng tiếp nhận của đối tượng. Có phương pháp giáo dục pháp luật tốt là một trong những yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật.
    1.2. Lư luận và giáo dục pháp luật cho cán bộ, các cấp chính quyền cấp xă:
    1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xă:
    Pháp lệnh sửa đổi, bổ xung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 29/04/2003 đă xác định rơ đối tượng cán bộ công chức: Cán bộ công chức được quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị xă hội. Tại khoản 1 điều 1 đă đưa ra quan niệm mới về cán bộ công chức. Trong đó mở rộng phạm vi điều chỉnh thêm các đối tượng ở mục (g) và (h). Như vậy, cán bộ, công chức được quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm:
     
Đang tải...