Luận Văn Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong nhà trường


    Đề tài dài 171 trang
    Tóm tắt:

    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài
    NQTW 5 khóa VIII và NQTW2 khóa VIII cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và giáo dục. Giáo dục đưa dân trí đất nước phát triển góp phần quan trọng phát triển nền văn hóa dân tộc, tạo nên một sức mạnh nội lực. Văn hóa là nội dung và là mục đích của giáo dục. Giáo dục là con đường chuyển tải và phát huy giá trị văn hóa.
    Ngày nay trường học được xem không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh mà còn phải biến tri thức đó thành vốn văn hóa, nhân cách văn hóa cho các em theo mục tiêu và nội dung của đổi mới giáo dục (tinh thần NQTW2 khóa VIII).
    Học sinh ở độ tuổi vị thành niên (VTN) từ 11, 12 đến 17,18 là lứa tuổi có những đột biến trong tâm sinh lý - thời kỳ được đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh cả về trí lực và thể lực. Song đây cũng là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành, một mặt các em có nhu cầu rất lớn những kiến thức khoa học về bản thân (vấn đề giới, tình bạn, tình yêu, tình dục .), mặt khác, là những nhu cầu về định hướng giá trị hành vi, kỹ năng sống.
    Nhiều công trình nghiên cứu gần đây và những thông tin từ báo chí, phát thanh, truyền hình xung quanh vấn đề tuổi VTN cho thấy, do thiếu hụt những kiến thức cần thiết ở lứa tuổi này từ phía gia đình - nhà trường - xã hội, VTN đang có những biểu hiện đáng lo ngại về đạo đức, lối sống: sống buông thả, đua đòi, xa hoa, lười biếng trong học tập, quay cóp trong thi cử, giải trí thiếu lành mạnh (VD: xem phim bạo lực, tình ái, trò chơi tiêu cực trên mạng Internet), từ đó dẫn đến phạm pháp, quan hệ yêu đương sớm, thậm chí có những em quan hệ tình dục sớm, nạo phá thai trước tuổi trưởng thành ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, học tập, tâm lý và tương lai của các em. Những tồn tại trên đây cho chúng ta nhìn rõ sự mất cân đối giữa giáo dục học vấn và giáo dục nhân cách văn hóa cho học sinh.
    Nhận thức được vấn đề này, một vài năm trở lại đây, giáo dục nhân cách cho học sinh ở lứa tuổi VTN đã bước đầu được nghiên cứu một cách hệ thống và đưa vào thể nghiệm từ năm 2000, song cũng mới chỉ dừng lại thí điểm ở một số trường PTCS (cấp II) với nội dung "giáo dục giá trị đạo đức nhân văn". Cho đến nay chưa có một công trình nào đi vào vấn đề "Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi VTN trong trường phổ thông một cách chuyên biệt. Với lý do này, chúng tôi chọn đề tài "Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi Vị thành niên trong nhà trường" nhằm tích hợp vốn một số môn xã hội, đặc biệt với bộ môn giáo dục công dân và giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua đó hình thành và phát triển nhân cách văn hóa cho lứa tuổi VTN, đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện theo tinh thần NQTW2 khóa 8 và NQTW5 khóa 8 của Đảng, phục vụ cho sự nghiệp phát triển CNH, HĐH đất nước.
    2. Mục đích nghiên cứu
    - Xác định những giá trị truyền thống văn hóa phù hợp với lứa tuổi VTN.
    - Đề xuất những giải pháp nhằm hình thành, phát triển những giá trị đó ở thế hệ VTN.
    3. Phương pháp nghiên cứu
    - Người viết sẽ đứng ở góc độ lý luận văn hóa để phân tích vấn đề, tuy nhiên đề tài sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các ngành xã hội học văn hóa, nhân học văn hóa, tâm lý học trẻ em và các tài liệu khác xung quanh tuổi VTN.
    - Phương pháp luận nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp DVBC và DVLS - Tư tưởng chỉ đạo của đề tài là dựa theo văn kiện của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
    - Các phương pháp cụ thể là phương pháp lôgíc, lịch sử thống kê, phân tích, đi khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia, phát triển thăm dò.
    4. Cấu trúc luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và mục tài liệu tham khảo, đề tài chia làm 3 chương
    Chương 1
    CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GTTTVH
    CHO LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG


    Trong chương này, tác giả đi vào 3 nội dung:
    1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
    - Khái niệm văn hóa: Theo nghĩa rộng, văn hóa là phương thức tồn tại đặc hữu của con người, khác biệt với phương thức tổ chức cuộc sống của các loài song thể khác trên trái đất.
    Nhà khoa học người Pháp Tây - Ha Đơ Sác - đanh (Teihard de Chardin) cho rằng: "Sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyền (Biosphère). Tiếp đó là sự xuất hiện của tri quyển (Noosphère) chỉ có ở loài người. Tri quyển đó là quyển về ý thức, tinh thần, về tư duy do loài người tạo ra. Tri quyển chính là văn hóa, biểu hiện thành "thiên nhiên thứ hai" hoặc còn gọi là "thế giới nhân tạo" của con người" [15, 9].
    Giải thích thuật ngữ văn hóa, các nhà nhân học phương Tây thường phân biệt ra 2 trường hợp: văn hóa viết hoa, số ít (Culture) và văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) [2, 13].
    Văn hóa viết hoa, số ít (Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ thuộc tính chỉ có ở loài người. Đó là khả năng học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, hành vi ứng xử và hệ thống các biểu tượng, nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau để tồn tại và phát triển.
    Văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) là thuật ngữ dùng để chỉ các nền văn hóa. Đó là những truyền thống, thể hiện thành những lối sống khác nhau của cộng đồng, bao gồm các hệ thống ý niệm, hệ thống ứng xử liên quan đến giá trị, hệ thống biểu hiện và hệ thống kỹ thuật, mà các cộng đồng ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn đã sáng tạo ra và học hỏi được. Hệ thống ý niệm (hệ tư tưởng) được xem là yếu tố cốt lõi của văn hóa, đóng vai trò chi phối đối với các hệ thống khác.
    Phù hợp với cách khu biệt trên đây, các nhà xã hội học cũng chia văn hóa ra: văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng [8]. Văn hóa cá nhân là toàn bộ tri thức (vốn kinh nghiệm), quan niệm được tích lũy vào mỗi cá nhân, quy định ứng xử của nó trong quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử - xã hội. Văn hóa cộng đồng không phải là con số cộng đơn giản của những văn hóa cá nhân sống trong cộng đồng xã hội ấy, mà là văn hóa của một nhóm xã hội. Đó là toàn bộ những quan niệm và hành xử được cộng đồng chia sẻ và chấp nhận, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội. Chính hệ thống những quan niệm và hành xử này làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng xã hội ấy.
    Trong đề tài này khi nói: "Tác động của văn hóa ." - tức là nói đến tác động của "văn hóa cộng đồng", đối với "nhân cách trẻ VTN" - Tức là nói đến sự phát triển "văn hóa cá nhân" ở mỗi trẻ VTN. Như vậy, đề tài sử dụng cả hai nghĩa của từ văn hóa.
    Để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích văn hóa dưới góc nhìn xã hội học và với phương pháp liên ngành: tâm lý, văn hóa, xã hội học.
    Phù hợp với cách tiếp cận trên đây, đề tài vận dụng định nghĩa văn hóa [cộng đồng] của nhà xã hội học Ba Lan Giăng Sê-pan-xki. Ông viết: "Văn hóa là toàn bộ sản phẩm vật chất tinh thần của hoạt động người, những hệ thống giá trị và khuôn mẫu ứng xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và truyền lại cho các cộng đồng người khác và cho những thế hệ tương lai thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa của nó".
    Định nghĩa trên đây là xuất phát từ quan điểm mác-xít xem văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của con người, sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động sáng tạo ấy đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển, nó còn tạo ra những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai trò nền tảng tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội đi lên theo hướng nhân bản. Toàn bộ những thành quả sáng tạo ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa như: gia đình và trường học, truyền đạt cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng khác nữa. Như vậy, văn hóa chẳng những là chất keo liên kết làm cho xã hội bền vững và phát triển, nó còn là cầu nối giữa các thế hệ và giữa các cộng đồng người, tạo nên sự đa dạng và liên tục của đời sống xã hội.
    + Khái niệm truyền thống và giá trị truyền thống văn hóa
    - Khái niệm truyền thống:
    Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (tradition) có nghĩa là "giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền thống là tất cả những gì người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán, những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương".
    Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi trường sinh thái và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng không vĩnh cửu, có thể được định chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể xác - để đảm bảo tính thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều xuất phát từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi vấn đề đều có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy Truyền thống nào cũng có truyền thống phù hợp và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển. Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền thống được chuyên chở, lưu giữ trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân. Nhiều khi nó trở thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống có thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định.
    - Khái niệm giá trị truyền thống văn hóa:
    Giá trị truyền thống là sự tuyển chọn những truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa tích cực và tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc. Trong các giá trị truyền thống có cái biến đổi nhanh, có cái bị đứt gẫy, và cũng có cái bền vững trường tồn.
    VD: Trong hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, tinh thần yêu nước là một giá trị truyền thống bền vững và trường tồn, tuy nhiên nội dung của nó cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi, nâng cao qua các quá trình lịch sử.
    - Khái niệm vị thành niên:
    Trong cuộc đời một con người, có một giai đoạn được gọi là tuổi "Vị thành niên".
    Theo từ điển tiếng Việt thì "Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình". Trong các văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động .) có dùng thuật ngữ "người chưa thành niên" và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
    Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận chung là: Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn nhất là quá trình dạy thì - cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành, tâm lý có sự "bùng nổ sâu sắc. Có thể hiểu đây là giai đoạn "sau trẻ con và trước lớn".
    - Khái niệm nhân cách văn hóa:
    Từ góc nhìn văn hóa, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo tâm lý người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội của một cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm ưu trội của nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động sáng tạo trong văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực lượng bản chất người" (K.Marx) của nhân cách văn hóa.
    2. Xác định nội dung giáo dục hệ giá trị TTVH cho lứa tuổi VTN trong trường phổ thông hiện nay
    - Nội dung giáo dục thông qua hệ khuôn mẫu văn hóa đậm bản sắc truyền thống Việt Nam trong cái lịch sử chủ yếu:
    - Môi trường gia đình
    - Môi trường học đường
    - Môi trường cộng đồng xã hội.
    - Với bản thân cá nhân mình.
    - Hình thức giáo dục, ở bình diện lý thuyết, nên đưa vào dạy tích hợp lồng ghép với các môn xã hội như: Văn học, Lịch sử, đặc biệt môn Giáo dục công dân.

    Chương 2
    THỰC TRẠNG

    2.1. Nhận thức của giáo viên, phụ huynh, học sinh VTN GTTTVH
    2.1.1. Vài nét về tư tưởng đạo đức lối sống học sinh VTN hiện nay
    2.1.2. Thái độ của giáo viên phụ huynh và học sinh VTN về TTDT
    2.2. Vài nét về tình hình giáo dục GTTTVH cho lứa tuổi VTN trong nhà trường hiện nay

    Chương 3
    NHỮNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
    VĂN HÓA CHO LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
    TRONG NHÀ TRƯỜNG


    3.1. Những quan điểm chỉ đạo
    Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta khẳng định và chủ trương: Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước phải coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc, nghĩa là giải quyết một cách khoa học, bảo đảm sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Điều đó cũng có nghĩa quan điểm của Đảng ta một mặt không chỉ nhìn truyền thống văn hóa dân tộc như cái gì đó bất biết, cố hữu mà mặt khác, cần biết giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại: "phát huy tới mức tối đa sức mạnh, nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh hiện đại, vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững. Đó là phương thức của sự phát triển lấy truyền thống làm cơ sở tiến lên hiện đại, ngược lại, trên cơ sở hiện đại nâng cao và làm phong phú truyền thống, không ngừng tăng cường tiềm lực nội sinh.
    Từ quan điểm của Đảng ta trên đây, nhiệm vụ của chúng ta, đặc biệt hai ngành Giáo dục và Văn hóa phải hiện thực hóa được NQTW Đảng vào cuộc sống. Nói như GS.TS Phạm Minh Hạc "Một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục - đào tạo (nhà trường, gia đình, xã hội) là phải làm chuyển các tri thức cung cấp cho học sinh, sinh viên thành vốn văn hóa của mỗi người: nhân cách văn hóa, nếp sống và lối sống văn hóa (nhất là ứng xử văn hóa, thái độ văn hóa trong cư xử giữa con người và con người, con người với gia đình, cộng đồng và xã hội, với môi trường tự nhiên) [18, 3].
    Ngay từ ngày 15-3-1994 hai Bộ Văn hóa thông tin và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Thông tư liên bộ về việc "Phối hợp đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong trường học".
    Ngày 21-8-1996 hai Bộ cũng đã ký thông tư liên bộ về "Phối hợp đào tạo và bồi dưỡng giáo viên âm nhạc - mỹ thuật phục vụ giáo dục thẩm mỹ cho học sinh mẫu giáo, phổ thông".
    Văn bản được ký kết gần đây nhất nhằm triển khai cuộc vận động văn hóa lớn mang tên "Toàn dân Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" là kế hoạch phối hợp (số 2723/CTCT do Bộ trưởng của hai bộ ký vào ngày 12-4-2001 nhằm đưa ra những tiêu chí xây dựng phát triển đời sống văn hóa trong nhà trường và tiêu chí để đánh giá "Trường học có đời sống văn hóa tốt".
    3.2. Những biện pháp giáo dục lý thuyết ở phần chính khóa
    - Lồng ghép tổng hợp vào hệ thống bài học của các môn: Văn học nghệ thuật Việt Nam.
    - Lịch sử Việt Nam.
    - Giáo dục công dân.
    - Giáo dục pháp luật.
    - Giáo dục thể chất.
    3.3. Những biện pháp giáo dục theo hình khuân mẫu văn hóa ứng xử (hoạt động giáo dục NGLL)
    - Hệ thống tổ chức đoàn đội trong nhà trường.
    3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống

    KẾT LUẬN
     
Đang tải...