Tài liệu Giao dịch biến tướng có liên quan đến hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu do yếu tố giả tạo.

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    GIAO DỊCH BIẾN TƯỚNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN BỊ VÔ HIỆU DO YẾU TỐ GIẢ TẠO.
    LS. NGUYỄN TRINH ĐỨC – Công ty Luật IPIC GROUP
    Giao dịch biến tướng liên quan đến hợp đồng vay tài sản:
    Sự phát triển kinh tế của Việt Nam tác động đến nhu cầu về vay vốn cho hoạt động sản xuất và các nhu cầu về tiêu dùng tăng lên làm cho hoạt động vay tài sản phát triển rất sôi động. Tuy nhiên, thời gian qua đã phát sinh nhiều biến tướng của hoạt động cho vay của các cá nhân, tổ chức (trừ hoạt động của các Ngân Hàng) dẫn tới một thực trạng đáng lo ngại cho những người đi vay và cho xã hội. Các tổ chức, cá nhân cho vay tiền với lãi suất rất cao được tính theo ngày, hoặc theo tháng (3% đến 7 % một tháng).
    Bên đi vay thường rơi vào tình trạng cần tiền gấp để thực hiện một nghĩa vụ không thể trị hoãn nên họ phải chấp nhận việc vay tiền với lãi suất cao đồng thời với những rủi ro trong việc giao kết. Bên cho vay ngoài ký kết hợp đồng cho vay thì còn yêu cầu thỏa thuận thêm hợp đồng mua bán nhà, hoặc bất động sản có công chứng kèm theo với giá chuyển nhượng thấp hơn nhiều giá trị thực tế, mục đích việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng là đảm bảo bên vay thực hiện hợp đồng vay. Đây là một biến tướng mà bên cho vay sử dụng khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và thanh toán tiền lãi thì bên cho vay yêu bên vay thực hiện hợp đồng chuyển nhượng. Trong trường hợp này sẽ tồn tại song song Hợp đồng cho vay và Hợp đồng mua bán nhà ở hoặc mua bán bất động sản (hợp đồng mua bán tài sản).
    Đây là vấn đề diễn ra khá phổ biến ở hoạt động cho vay hiện nay, nó tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh cũng như gây thiệt hại nặng nề tài sản cho bên đi vay. Vì vậy, làm rõ vấn đề pháp lý của hai hợp đồng trên có ý nghĩa quan trong không chỉ đối với bên cho vay và bên vay mà còn có ý nghĩa thực tiễn giải quyết những tranh chấp đối với các giao dịch cho vay trên.
    Quy định của pháp luật liên quan
    Đối với hợp đồng cho vay: Theo quy định điều 471 Bộ Luật Dân sự “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Chủ thể tham gia cho vay tài sản (trên thực tế chủ yếu là vay tiền) có thể là cá nhân hoặc tổ chức, hình thức hợp đồng vay có thể bằng văn bản hoặc thỏa thuận bằng miệng (pháp luật không hạn chế hình thức hợp đồng), lãi suất trong hợp đồng vay theo sự thỏa thuận của các bên. Như vậy đối với hoạt động cho vay trên là đúng quy định của pháp luật.
    Đối với giao dịch mua bán nhà ở, bất động sản được xác lập giữa bên cho vay và bên vay:
    Theo quy định tại điều 450 bộ luật Dân sự “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đồng thời có quy định khoản 3 điều 451 bộ luật Dân Sự thì bên bán nhà có nghĩa vụ “giao nhà ở đúng tình trạng đã ghi trong hợp đồng kèm theo hồ sơ về nhà cho bên mua;nhà ở đúng tình trạng đã ghi trong hợp đồng kèm theo hồ sơ về nhà cho bên mua”. Và Bên mua nhà có quyền theo quy định tại khoản 3 điều 454 Bộ Luật Dân sự “Yêu cầu bên bán giao nhà đúng thời hạn; nếu không giao hoặc chậm giao nhà thì phải bồi thường thiệt hại.”
    Xét một cách độc lập thì hợp đồng mua bán nhà mà các bên cho vay và bên vay tiến hành ký kết có công chứng sẽ có hiệu lực. Vì đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại điều 122 Bộ Luật Dân sự điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
    Tuy nhiên xét tổng thể việc giao dịch hợp đồng mua bán tài sản với quan hệ hợp đồng vay tài sản trong trường hợp này theo chúng tôi hợp đồng mua bán tài sản bị vô hiệu do yếu tố giả tạo.
    Theo quy định tại điều 129 Bộ Luật Dân Sự giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”. Đối với hợp đồng vô hiệu do giả tạo yếu tố khách quan của nó là luôn tồn tại hai hợp đồng trong đó một hợp đồng bề ngoài và một hợp đồng bị che giấu, các bên có sự đồng thuận trong việc ký kết xác lập tuy nhiên việc thể hiện ý chí ra bên ngoài không thực hiện đúng theo ý chí nội tâm (có sự khác nhau giữa ý chí và bày tỏ ý chí) đối với hợp đồng mua bán tài sản này ta xem xét hai yếu tố trên như sau.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...