Tài liệu Giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giám sát xã hội đối với hoạt động




    tư pháp ở nước ta hiện nay






    Giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp là một loại giám sát có tính đặc thù trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước nói chung, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước Việt Nam. Việc tăng cường vai trò
    của giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp sẽ góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý cũng như xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.


    Cơ sở lý luận và thực tiễn của giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp




    Để khắc phục sự lạm quyền trong thực thi quyền lực tư pháp cũng như những vi phạm, sai sót trong công tác tư pháp, Nhà nước ta đã thiết lập, xây dựng các cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát khác nhau đối với hoạt động của các
    cơ quan tư pháp. Bên cạnh cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát do các cơ quan đảng, nhà nước tiến hành, Nhà nước cũng thiết lập cơ chế giám sát xã hội đối với hoạt động của Nhà nước nói chung, trong đó có hoạt động tư pháp.


    Giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp là một loại giám sát đặc thù trong tổng thể cơ chế giám sát thực thi quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, hội, hiệp hội, liên hiệp hội, tổ chức phi chính phủ và công dân. Ngoài những chủ thể nêu trên, phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội cũng được coi là chủ thể của giám sát xã hội trong việc theo dõi, quan

    sát, xem xét, đánh giá hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp, cũng như việc


    tổ chức và thực thi quyền lực tư pháp của cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp.




    Tất cả các hoạt động của các chủ thể giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp đều góp phần quan trọng làm cho các cơ quan tư pháp, cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn quyền lực được giao; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và bảo đảm cho các hoạt động tư pháp thực hiện đúng pháp luật một cách khách quan, khoa học, hiệu quả,
    xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý; giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


    Giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp tuy không mang tính quyền lực nhà nước, không có tính cưỡng chế hoặc không làm phát sinh những hậu quả pháp lý, nhưng kết quả của nó có ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của Nhà nước; đồng thời, góp phần khẳng định, nâng cao bản chất nhân dân của Nhà nước ta, chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp; khắc phục tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án; làm cho nhiều bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành đầy đủ, đúng đắn và kịp thời.


    Tuy vậy, do tính đặc thù của giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp là không mang tính quyền lực, tính cưỡng chế nên trong thực tế, công tác này cũng gặp không ít khó khăn, hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, nước ta hiện đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và ngày càng hội nhập sâu rộng vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế, đồng thời, chủ động, tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều đó đòi hỏi cần phải tiếp tục tăng cường vai trò của giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp, nhằm góp phần xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập của đất nước; và hơn nữa, góp phần

    khắc phục cách nhìn nhận và đánh giá sai lệch của một số cán bộ, công chức trong các cơ quan tư pháp về giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.


    Về đối tượng giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp: Căn cứ pháp luật hiện hành, có thể xác định giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp có các đối tượng chính như:


    - Hoạt động tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật trong việc xử lý các tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, việc thực hiện điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân – gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, phá sản và thi hành các bản án theo quy định của pháp luật;


    - Tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật do các cơ quan tư pháp ban


    hành;




    - Việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm, quyền hạn của cán bộ, công chức trong


    hoạt động tư pháp ở Trung ương và địa phương;




    - Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về thiệt hại cho công dân do hoạt động tư


    pháp gây ra;




    - Hoạt động tài chính của các cơ quan tư pháp (việc sử dụng tài sản, ngân sách,


    tiền án phí, tiền thu của việc thi hành bản án, tang vật );




    - Việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của các cơ quan tư pháp; việc cung cấp các thông tin hoạt động tư pháp cho các cơ
    quan ngôn luận, thông tin đại chúng và việc trả lời các vấn đề tư pháp theo yêu cầu


    của các cơ quan này




    Về hình thức giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp: Ở nước ta, việc tham gia giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp được thực hiện thông qua nhiều hình thức. Có thể nêu những hình thức cơ bản như: Công dân trực tiếp tố giác và cung

    cấp tin báo về tội phạm; tham dự các phiên tòa xét xử công khai; kiến nghị, khiếu nại, tố cáo; tham gia làm hội thẩm nhân dân. Mặt trận Tổ quốc có quyền giám sát việc thực hiện pháp luật tố tụng, việc bồi thường oan, sai trong hoạt động tư pháp, khởi kiện hoặc đề nghị viện kiểm sát khởi tố; giám sát việc thi hành các bản án; phối hợp với cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp giám sát các lĩnh vực đã ký kết theo quy chế phối hợp, như trong việc tạm giữ, tạm giam, giáo dục người chấp hành án phạt tù, công tác đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo


    Thực trạng giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp




    Thực trạng về pháp luật




    Hệ thống các quy định của pháp luật về giám sát của nhân dân (giám sát xã hội) đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống đó được thể hiện trong Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và được cụ thể hóa thành luật như: Luật Thanh tra, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ luật Hình sự, Bộ luật
    Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Khiếu nại, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Báo chí, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Pháp lệnh Thi hành án phạt tù, Pháp lệnh Thi hành án dân sự. Đồng thời, chúng cũng được cụ thể hóa trong một số nghị định của Chính phủ như: Nghị định số 33/CP, ngày 14-4- 1997, ban hành quy chế về trường giáo dưỡng; Nghị định số 60/2000/NĐ-CP,
    ngày 30-10-2000, về việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ; Nghị định số 61/2000/NĐ-CP, ngày 30-10-2000, về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo; Nghị định số 53/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành các hình phạt cấm cư trú và quản chế
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...