Luận Văn Giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
    PHẦN I.​​NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

    I./ Lao động- Một yếu tố nguồn lực của tăng trưởng và phát triển kinh tế

    1./ Nguồn nhân lực và nguồn lao động
    1.1./ Nguồn nhân lực.
    Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khẳ năng tham gia lao động trừ những người không còn khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt, mặt thứ nhất về số lượng trong đó là tổng số những ngươif trong độ tuổi lao động và thời gian có thể huy động được ở họ. Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước (kể cả cận trên và cận dưới) là rất khác nhau, tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. ở Việt nam, trước đây độ tuổi lao động quy định từ 16 ¸ 60 tuổi (với nam) và 16¸ 55 (với nữ). Hiện nay theo bộ luật lao động quy định lại là 15 ¸ 60 (với nam) và 15 ¸ 55 (với nữ). Mặt thứ hai về chất lượng nguồn nhân lực, đó là trình độ chuyên môn và sức khoẻ của người lao động. ở Việt nam, trình độ chuyên môn được kiểm tra bằng cách thi tay nghề (với công nhân kỹ thuật) và thi công chức (với cán bộ). Sức khoẻ để làm việc là yếu tố thiết yếu đòi hỏi phải có người lao động, cho nên khi tuyển dụng lao động phải kiểm tra sức khoẻ trước sau đó mới kiểm tra đến trình độ chuyên môn.
    1.2./ Nguồn lao động.
    Nguồn lao động là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm đang tích cực tìm việc làm. Nguồn lao động là một bộ phận những người tham gia lao động và trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Cũng như nguồn nhân lực thì Nguồn lao động được biểu hiện tren hai mặt số lượng và chất lượng. So sánh với khái niệm nguồn nhân lực thì Nguồn lao động có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng không được tính vào Nguồn lao động. đó là những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm (những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình mình và những người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định).
    1.3./Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm


    [​IMG]
    Nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn mối hệ biện chứng giữa phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm được mô tả theo sơ đồ 1

    Sơ đồ 1
    Ở khung A, đó là sự hội tụ của cung và cầu về lao động với giá tiền công lao động phù hợp. Ở khung B, đó là sự phát triển liên tục của nguồn nhân lực thông qua giải quyết việc làm, tức là sử dụng lao động trong quá trình lao động. Sơ đồ này cho thấy quá trình sự gắn kết giữa phát triển nguồn nhân lực và phát triển việc làm là một quá trình hoạt động, phát triển không ngừng.
    2./ Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng lao động.
    2.1./ Dân số.
    Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: Quy mô và cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của dân số như: Phong tục – tập quán của mỗi nước; Trình độ phát triển kinh tế; Mức độ chăm sóc y tế và chính sách của từng nước đối với vấn đề khuyến khích và hạn chế sinh đẻ
    Tình hình tăng dân số trên thế giới hiện nay có sự khác nhau giữa các nước. Nhìn chung, các nước phát triển có mức sống cao thì tỷ lệ tăng dân số cao. Mức tăng dân số bình quân của thế giới hiện nay là 1,8%, ở các nước Châu Âu thường ở mức 1%, trong khi đó ở các nước Châu á là 2 ¸ 3% và ở Châu phi là 3 ¸ 4%. Trong khi đó, ắ dân số thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh trong khi phát triển kinh tế tăng chậm, làm cho mức sống của nhân dân không tăng lên được và tạo ra áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm.Do đó kế hoạch hoá dân số đi đôi với phát triển là vấn đề quan tâm của các nước đang phát triển.ở Việt Nam,dân số hiện nay ở nước ta là 81 triệu người,mức tăng dân số hiện nay là 2,7%
    KẾT LUẬNCó thể nói một cách cô đọng nhất, phát triển nguồn nhân lực là quá trình giáo dục – đào tạo và sử dụng tiềm năng của con người nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội và chất lượng cuộc sống. Sự hình thành và phát triển nguồn nhân lực về số lượng, cơ cấu và chất lượng gắn bó một cách chặt chẽ với nhau với nhiều yếu tố tác động đến: việc làm, thu nhập, sự phát triển kinh tế xã hội, y tế, môi trường v.v .
    Vấn đề giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ mới (2001 ¸ 2005) đã đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta một áp lực lớn cần giải quyết. Giải quyết các vấn đề xã hội đồng thời giải quyết các vấn đề bức xúc về giải quyết việc làm là công việc cần phải làm, bởi vì nó tác động đến sự phát triển kinh tế của nước ta. Giải quyết việc làm cần phải dựa vào thực trạng của các thời kỳ trước, các kiến nghị ở các kỳ họp quốc hội và kinh nghiệm về giải quyết việc làm của các nước trên thế giới đã thành công trong vấn đề này
    Trước yêu cầu CNH-HĐH đất nước, giải quyết việc làm không phải là công việc có thể giải quyết được trong một sớm một chiều.
    Phát triển kinh tế ở nước ta trong thời kỳ mới phải gắn liền với vấn đề giải quyết việc làm, mà giải quyết việc làm luôn phải đi đôi với vấn đề công bằng xã hội ở nước ta. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước ta cần tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, để người lao động có thể mưu sinh lập nghiệp, tự tạo việc làm, mở ra cơ hội việc làm và nghề nghiệp cho họ. Nhà nước ta nên tạo điều kiện về vốn liếng và trình độ tay nghề cho họ. Bởi vì, người lao động luôn năng động tìm kiếm và tự tạo việc làm và thực tế là không có người lao động không có việc làm mà chỉ có người lao động không có việc làm ổn định. Cần kêu gọi trách nhiệm của xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhằm tạo việc làm của người lao động.
     
Đang tải...