Tiểu Luận Giải quyết tranh chấp đất Lâm nghiệp giữa Ban quản lý khu Bảo tồn thiên nhiên với đồng bào dân tộc t

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word


    NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
    Ngày 18 tháng 3 Năm 2004, UBND tỉnh Gia lai ra quyết định số 28/2004/QĐ-UB “ V/v thành lập khu BTTN Bà nà ”. Trong điều 2 quyết định này có nêu:
    Điều 2 : Nhiệm vụ cụ thể của Khu bảo tồn thiên nhiên Bà nà thực hiện theo Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của cơ quan chức năng cấp trên .
    Ngày 16 tháng 5 Năm 2005 UBND tỉnh Gia lai ra quyết định số 70/2005/QĐ-UB “V/v giao đất lâm nghiệp cho khu BTTN Bà nà để quản lý bảo vệ” trong đó giao cho BQL khu BTTN Bà nà quản lý bảo vệ 15.900 ha đất Lâm nghiệp (Có bản đồ hiện trạng kèm theo), trong đó có:
    + Đất có rừng tự nhiên: 15.480 ha
    + Đất Lâm nghiệp chưa có rừng 298 ha.
    + Đất nông nghiệp 62 ha.
    + Sông suối 60 ha.
    Căn cứ vào 2 quyết định nêu trên của UBND tỉnh Gia lai thì Khu BTTN Bà nà có 6 nhiệm vụ cụ thể là:
    “1. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước về QLBV, xây dựng và sử dụng khu BTTN Bà nà theo quy chế quản lý 3 loại rừng và các quy định khác của pháp luật; tổ chức quản lý bảo vệ 15.900 ha rừng của khu BTTN Bà nà; khôi phục và bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái; bảo tồn tính đa dạng sinh học của khu BTTN Bà nà, gồm thực hiện các biện pháp nhằm phát triển bền vững tài nguyên sinh vật, tài nguyên đất, tài nguyên nước, đồng thời phối hợp với các cấp chính quyền sở tại để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác thực hiên các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng phòng trừ sâu bệnh hại rừng ngăn chặn các hành vi gây thiệt hại đến khu BTTN Bà nà.
    2. Lập dự án bổ sung đầu tư xây dựng khu khu BTTN Bà nà đồng thời lập dự án chi phí hàng năm cho các hoạt động của đơn vị để trình cấp thẩm quyền phê duyệt, quản lý sử dụng kinh phí đầu tư từ ngân sách Nhà nước theo quy định hiện hành.
    3. Tổ chức thực hiện nội dung các dự án đầu tư của khu khu BTTN Bà nà đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tổ chức các hoạt động về hợp tác Quốc tế theo
    sự phân công của cơ quan có thẩm quyền và theo các qui định hiện hành của nhà nước về lĩnh vực này.
    4. Xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động của khu BTTN Bà nà theo hướng dẫn của cơ quan chủ quản.
    5. Định kỳ báo cáo cấp trên về diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động của khu BTTN Bà nà;
    6. Tiến hành các hoạt động dịch vụ nghiên cứu khoa học, văn hóa xã hội và du lịch sinh thái theo quy định của pháp luật.”
    Sau khi Khu BTTN Bà nà được thành lập, Giám đốc cùng CBCCVCC Khu BTTN Bà nà đã tìm hiểu thêm về lịch sử hình thành khu BTTN Bà nà thì được biết rằng :
    - Trước năm 1976 trong khu BTTN Bà nà có 2 làng Kon Chu và làng Kon Jrang của đồng bào dân tộc thiểu số Ba Na với khoảng gần 100 hộ dân sinh sống, người dân tộc thiểu số Ba Na có tập quán canh tác nương rẫy theo phương thức luân canh, mỗi hộ thường canh tác khoảng 9 ha nương rẫy, nhưng chỉ có khoảng 3 ha đang trong chu kỳ sản xuất, còn 6 ha nương rẫy ở chu kỳ nghỉ, cứ mỗi năm họ lại bỏ hoang 1 ha nương rẫy có đất đã bạc màu để phát thêm 1 ha nương rẫy mới (diện tích phát rẫy mới thường vào diện tích rẫy bỏ hoang của 9 năm về trước, chỉ phát lấn vào rừng khi gia đình có nhu cầu tăng diện tích rẫy khi có tách hộ, hoặc khi nhân khẩu trong gia đình tăng, ngược lại có khi nhu cầu nương rẫy của 1 hộ nào đó giảm do số nhân khẩu của hộ đó giảm, do đó có một số diện tích nương rẫy bị bỏ hoang lâu ngày thành rừng già nhưng theo tập tục của người Ba Na thì diện tích rẫy bỏ hoang thành rừng đó vẫn thuộc sở hữu của hộ đã từng làm rẫy ở đó nên không có tình trạng các hộ phát rẫy chồng lấn lên rẫy của hộ khác mặc dù diện tích rẫy đó đã bị bỏ hoang thành rừng già. Thời gian trước năm 1976 đời sống của người Ba Na trong vùng gặp rất nhiều khó khăn lại bệnh tật nhiều nên dân số tăng rất chậm, kéo theo diện tích rừng bị phá để làm rẫy không đáng kể so với tổng diện tích rừng trong vùng).
    - Từ năm 1976 đến năm 2004, chính quyền địa phương đã cơ bản đưa toàn bộ các hộ dân định cư trong khu BTTN Bà Nà ra định cư tại vùng đệm, nhưng chưa hoàn thành định canh cho các hộ dân này tại vùng đệm, nên phần lớn các hộ dân vẫn canh tác nông nghiệp theo phương thức sản xuất nương rẫy luân canh trong khu BTTN Bà Nà, chính vì vậy từ năm 1976 cho đến khi thành lập và giao toàn bộ 15.900 ha đất lâm nghiệp cho BQL khu BTTN Bà Nà (Tháng 5 năm 2005) thì vẫn có trên 60 hộ dân canh tác khoảng 200 ha đất nông nghiệp trong khu BTTN Bà Nà, trong đó có khoảng 140 ha nương rẫy đang trong chu kỳ nghỉ.
    - Từ năm 2004 đến nay, sau khi BQL khu BTTN Bà Nà đi vào hoạt động (tháng 6 năm 2004) BQL khu BTTN Bà Nà đã phối hợp với chính quyền địa phương áp dụng nhiều biện pháp tích cực (trong đó có biện pháp vận động người dân không phá rừng làm nương rẫy mới, kể cả diện tích nương rẫy đã bỏ hoang thành rừng nằm trong khu BTTN Bà Nà cũng không được phát lại để làm nương rẫy, hay sản xuất nông nghiệp) nhằm QLBV tốt 15.900 ha đất Lâm nghiệp được giao, ngăn chặn hành vi lấn chiếm đất rừng làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp và đã đạt được một số kết quả nhất định, như hầu hết các hộ dân không những không phá rừng làm nương rẫy, không phát lại rẫy cũ đã thành rừng để làm nương rẫy, mà còn tiếp tục bỏ hoang một số diện tích nương rẫy, chính vì vậy chỉ trong 3 năm 2004 – 2008 đất nông nghiệp trong khu BTTN Bà Nà giảm trên 2/3 diện tích , độ che phủ của khu BTTN Bà Nà tăng 2,5 %, Tỷ lệ rừng giàu, rừng trung bình tăng 21 %, rừng non tăng 5,2 %, rừng ngèo giảm 23,7%. Tuy nhiên do nhiều hộ người dân tộc Ba Na ở thôn Điện Biên diện tích đất nông nghiệp còn có thể sản xuất được là quá ít, trình độ canh tác vẫn còn lạc hậu, thu nhập từ diện tích đất nông nghiệp còn lại không đủ trang trải cuộc sống, nên có một số hộ đã quay lại khu BTTN Bà Nà phát lại diện tích rẫy cũ đã bỏ hoang từ lâu thành rừng để sản xuất nương rẫy trong khu BTTN Bà Nà.
    Ngày 3 tháng 4 năm 2008, trong khi tuần tra bảo vệ rừng, cán bộ bảo vệ rừng khu BTTN Bà Nà phát hiện tại tiểu khu 47 thuộc lâm phận của khu BTTN Bà Nà quản lý có 6 hộ người dân tộc Ba Na ở thôn Điện Biên đang phát rừng làm nương rẫy, tổng cộng đã phát được 2000 m2, trong đó mỗi hộ đã phát được 300 đến 350 m2 rừng non, cán bộ bảo vệ rừng khu BTTN Bà Nà tạm đình chỉ việc phá rừng làm nương rẫy của 6 hộ dân nói trên, lập biên bản về hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép của 6 hộ dân này, nhưng 6 hộ dân đang phát rẫy không đồng ý, với lý do diện tích 2000 m2 mà 6 hộ đã phát rẫy, nằm trong diện tích 6 ha rẫy cũ của 6 gia đình họ đã sản xuất từ rất lâu, theo phong tục tập quán du canh và luân canh của dân tộc họ, nên họ đã bỏ hoang từ 9 năm về trước, nay mọc thành rừng, bây giờ đến chu kỳ canh tác, vì vậy rẫy của họ có từ trước khi thành lập khu BTTN Bà Nà, nên họ coi hành vi của họ không phải là hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép mà chỉ là hành vi sản xuất nương rẫy luân canh thông thường như ông bà họ vẫn từng làm, khu BTTN Bà Nà mới là đơn vị chiếm đất của họ. Hiện 6 gia đình đang thiếu đất canh tác, hoặc có đất nông nghiệp nhưng đã bạc màu đồng bào không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp được nữa, nếu khu BTTN Bà Nà không cho 6 hộ dân này làm rẫy trên diện tích họ đã, đang phát rừng làm rẫy thì 6 hộ sẽ bị đói, buộc họ phải vào sâu trong rừng nguyên sinh để phá rừng làm nương rẫy mới nhằm đảm bảo cuộc sống của gia đình họ.
    Về phía khu BTTN Bà nà cho rằng diện tích rừng mà 6 hộ dân thôn Điện Biên đang phát làm nương rẫy tại tiểu khu 47 thuộc lâm phận quản lý của BQL khu BTTN Bà nà, đã được UBND Tỉnh Gia Lai giao theo quyết định số 70 /2005/QĐ-UB ngày 16 tháng 5 năm 2005 “V/v giao đất lâm nghiệp cho khu BTTN Bà nà để quản lý bảo vệ” có bản đồ hiện trạng kèm theo. Việc 6 hộ dân thôn Điện biên đang phá rừng làm nương rẫy ở tiểu khu 47 là vi phạm điều 12 luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 10 năm 2004 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004 thông qua. Việc BQL tạm đình chỉ và lập biên bản về hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép của 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên là đúng với trách nhiệm của chủ rừng được quy định tại điều 37 luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 10 năm 2004 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004 thông qua, và quyết định số 28/2004/QĐ-UB Ngày 18 tháng 3 Năm 2004 của UBND tỉnh Gia lai, “ V/v thành lập khu BTTN Bà nà ”.
    Vụ việc tranh chấp đất lâm nghiệp nói trên giữa khu BTTN Bà Nà và 6 hộ dân thôn Điện biên nói trên không thể giải quyết theo thông lệ là lập biên bản về hành vi lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng, phá rừng làm nương rẫy trái phép của 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên chuyển giao cho cơ quan chức năng xử lý theo Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản, vì những ý kiến của 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên cũng có những lý lẽ hợp lý nhất định, hơn nữa họ là đại diện cho gần 100 hộ dân người dân tộc Ba Na trong vùng đệm của khu BTTN Bà Nà, có hoàn cảnh tương tự, nên nếu xử lý không kiên quyết, cho 6 hộ dân thôn Điện Biên được phát lại rẫy cũ trong khu BTTN Bà Nà thì các hộ khác cũng vào phát lại hàng trăm ha rẫy cũ trong khu BTTN Bà Nà, không thể giữ được rừng, ngược lại nếu xử lý cứng nhắc, không thỏa đáng, sẽ gây phản ứng bất bình cho người dân Ba Na trong vùng, dễ bị bọn phản động lôi kéo xúi giục người dân tộc thiểu số chống lại chính quyền, đồng thời nếu xử phạt vi phạm hành chính 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên theo đúng Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản thì không khả thi, vì 6 hộ dân thôn Điện Biên nói trên quá ngèo không đủ ăn, không có tài sản gì đáng giá nên không thể có tiền để nộp VPHC cũng như khắc phục hậu quả. Để giải quyết thỏa đáng vụ việc này cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều nghành, nhiều cấp, nhiều cơ quan liên quan nên BQL khu BTTN Bà Nà đã lập văn bản báo cáo cụ thể lên UBND Huyện K (chính quyền địa phương sở tại), lên chi cục Kiểm lâm (là cơ quan chủ quản), lên UBND tỉnh Gia lai (cơ quan ra quyết định giao đất cho khu BTTN Bà Nà) để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết thỏa đáng vụ việc tranh chấp đất Lâm nghiệp nói trên.
    2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
    2.1 Mục tiêu phân tích tình huống
    Tìm ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nguyên nhân xảy ra tình huống, từ đó đánh giá hậu quả do tình huống tạo ra đối với xã hội, để làm cơ sở cho phần xử lý tình huống, và kiến nghị với Đảng, Nhà nước và cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản liên quan đến giải quyết tình huống đã chọn, và các tình huống tương tự.
    2. 2. Cơ sở lý luận:
    Những căn cứ pháp lý để phân tích tình huống:
    - Căn cứ Luật Đất đai đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua năm 2003
    - Căn cứ Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 03 tháng 12 năm 2004
    - Căn cứ Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/03/2006 của chính phủ “V/v thi hành luật Bảo vệ và phát triển rừng ”;
    - Căn cứ Nghị định 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLBV rừng và quản lý lâm sản
    - Căn cứ quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 12/8/2006 của Thủ tướng chính phủ “V/v ban hành Qui chế quản lý rừng ”;
    - Căn cứ quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng chính phủ “Về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp”
    - Căn cứ quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 của Thủ tướng chính phủ “Về việc phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia giảm ngèo giai đoạn 2006 - 2010”
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...