Tài liệu Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng ở Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương

Thảo luận trong 'Tài Chính - Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng ở Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương

    LỜI NÓI ĐẦU

    Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt đời sống xã hội. Sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã góp phần tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhiều mô hình doanh nghiệp nhiều loại hình kinh doanh trong đó có kinh doanh ngân hàng được tập trung phát triển. Ngành ngân hàng là một ngành hết sức quan trọng và cần thiết với nền kinh tế nước ta hiện nay, đó là một kênh dẫn vốn có thể nói là quan trọng nhất trong hệ thống tài chính nước ta hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì ngành ngân hàng cũng có những tồn tại cần phải nhanh chóng giải quyết. Một trong những tồn tại cần giải quyết đó là vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng.

    Trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương, được sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Đào Văn Hùng và toàn thể cán bộ phòng Tín dụng ngắn hạn và phòng Dự án tôi đã chọn nghiên cứu và hoàn thành đề tài : Giải pháp tăng cường quản lý rủi 0ro tín dụng ở Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương

    Kết cấu bài viết ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận bao gồm ba phần :

    Phần I : Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

    Phần 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng và vấn đề rủi ro tín dụng ở Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương.

    Phần 3 : Một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng ở Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương.







    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]




    ________________


    [TABLE=align: left]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]




    RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
    CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


    · Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
    · Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng.
    · Rủi ro tín dụng: Chỉ tiêu đo lường, dấu hiệu nhận biết, nguyên nhân và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng.





    I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

    1. Ngân hàng thương mại.

    Để đưa ra định nghĩa về một vấn đề, người ta thường căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động của nó, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.

    Căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động có nhiều định nghĩa về ngân hàng, ví dụ Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 đã định nghĩa : Ngân hàng được coi là những xí nghiệp dưới cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu tín dụng hay dịch vụ tài chính . Luật ngân hàng của Ên Độ năm 1950, được bổ sung năm 1959 đã định nghĩa : Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư .

    Căn cứ vào sự kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động, Luật ngân hàng Đan Mạch năm 1930 đã định nghĩa như sau : Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, bán buôn vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm

    Pháp lệnh ngân hàng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã nêu : Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.

    Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ngân hàng được hiểu là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.

    Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng phân tích nội dung của các định nghĩa đó người ta dễ dàng nhận thấy các ngân hàng thương mại đều có chung một đặc điểm đó là việc nhận tiền ký thác- tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn- để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh khác của ngân hàng.

    2. Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường

    Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thần kinh, hệ tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng lớn mạnh và lành mạnh. Nền kinh tế càng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp thì hệ thống các ngân hàng cũng phải phát triển tương xứng. Như vậy, sự ra đời tồn tại và phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại là một tất yếu khách quan và là tác nhân tất yếu đối với sự phát triển của nền kinh tế. Vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện cụ thể rõ ràng qua 3 chức năng chính cuả nó. Đó là :

    Tạo tiền.

    Mét trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại là tạo tiềnvà huỷ tiền - ngân hàng thương mại không tạo ra những tờ tiền giấy, mà là những khoản tiền gửi ở dạng tài khoản thanh toán. Chức năng tạo tiền được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với Ngân hàng Nhà nước. Khi thực hiện chức năng này, ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, hệ thống ngân hàng thương mại như một kênh dẫn để thông qua đó lượng tiền cung ứng được tăng lên hoặc giảm xuống nhằm đạt được những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Với việc mở rộng lượng tiền cung ứng, ngân hàng thương mại là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá của nền kinh tế mà không gắn liền với hiện tượng lạm phát, và tiết kiệm được chi phí in tiền.

    Trung gian tài chính.

    Trung gian tài chính là một chức năng quan trọng của ngân hàng thương mại, vì nó khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nguồn vốn đó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Ngân hàng thương mại là người đứng giữa điều chuyển vốn từ người có vốn nhàn rỗi sang người cần vốn, thông qua các nghiệp vụ nhận tiền tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, và hoạt động tín dụng, đầu tư. Qua các nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại có thể chuyển một phần vốn ngắn hạn sang đầu tư trung và dài hạn, tập trung những khoản tiền nhỏ nhất để đầu tư những dự án lớn, và với mạng lưới chi nhánh rộng khắp có các mối quan hệ chặt chẽ tuyệt vời của mình ngân hàng thương mại có thể điều chuyển vốn đến mọi nơi, mọi lúc đến mọi đối tượng vói chí phí nhỏ nhất. Như vậy, ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính tuyệt vời giải quyết được những vấn đề lớn của hoạt động điều chuyển vốn đó là vấn đề thời gian, không gian, quy mô, và chi phí. Thực hiện chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.

    Trung gian thanh toán

    Với mạng lưới rộng khắp và được trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại, các mối quan hệ sâu rộng, ngân hàng thương mại là một trung tâm thanh toán của toàn bộ nền kinh tế, và là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Trong xu hướng toàn cầu hoá và quốc tế hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội ngày nay, không một quốc gia nào có thể tách mình ra khỏi cộng đồng quốc tế. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Với vai trò là trung tâm thanh toán, ngân hàng thương mại đã không chỉ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong nước, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển, góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hoà nhập cùng nền kinh tế toàn cầu.

    II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

    1. Tín dụng ngân hàng.

    1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng.
    Tín dụng ngân hàng là hoạt động cơ bản, thường xuyên nhất của ngân hàng chiếm tới 2/3 tài sản Có của ngân hàng, đây là hoạt động đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng.

    Tín dụng ngân hàng thể hiện sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một số lượng tiền nhất định của ngân hàng cho bên đi vay trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả gốc và lãi. Thực chất của tín dụng ngân hàng là quan hệ vay muợn có hoàn trả cả gốc và lãi- đây là quan hệ chuyển nhượng tạm thời về quyền sử dụng vốn.

    Tín dụng ngân hàng hoàn toàn khác với các hình thức tín dụng khác ( tín dụng thương mại, tín dụng tiêu dùng, tín dụng Nhà nước ), đó là một hoạt động kinh doanh tiền tệ phức tạp. Tính phức tạp của nó thể hiện ở chính đối tượng kinh doanh- đó là tiền tệ, và ở đây tiền tệ đã bị tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Tín dụng ngân hàng được thực hiện theo ba nguyên tắc :

    + Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã ký trong hợp đồng tín dụng.
    + Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.
    + Vốn vay phải được đảm bảo bằng hàng hoá có giá trị tương đương.

    1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng.
    Tín dụng ngân hàng có thể phân thành những loại khác nhau theo những tiêu thức khác nhau.
    Xét theo thời gian, tín dụng ngân hàng có thể được chia thành các loại :

    + Tín dụng ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn dưới 1 năm.
    +Tín dông trung hạn là các khoản vay có thời hạn 1-3 năm.
    +Tín dụng dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 3 năm.

    Xét theo mục đích sử dụng tiền vay, tín dụng chia thành:

    + Tín dụng tiêu dùng .
    +Tín dụng nông nghiệp.
    + Tín dụng công nghiệp.
    +Tín dụng xuất nhập khẩu.

    Xét theo sự bảo đảm, tín dụng có thể chia thành :

    + Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
    + Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản.

    Ngày nay, tín dụng ngân hàng không chỉ là hình thức cho vay mà được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các hình thức : cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê. Tuy nhiên, dù được thực hiện dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì các hành vi tín dụng ngân hàng đều có cùng một logic kinh tế là : hứng chịu rủi ro cho một cá nhân, tổ chức mà ngân hàng đã tin tưởng ứng vốn cho sử dụng.
    2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.Cùng với qúa trình phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại cũng ngày càng phát triển lớn mạnh, khẳng định vai trò của một trung gian tài chính không thể thiếu trong hệ thống tài chính quốc gia. Quá trình này đồng thời khẳng định vai trò thiết yếu của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

    2.1 Vai trò của tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
    Trước hết, hoạt động tín dụng là hoạt động tiền đề cho sù ra đời của ngân hàng thương mại, đây cũng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi lẽ hơn 2/3 tài sản Có của ngân hàng là các khoản cho vay, và thu nhập từ những khoản cho vay này cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc duy trì và mở rộng tín dụng mang mét ý nghĩa sống còn đối với các ngân hàng thương mại. Khi các ngân hàng không thực hiện được duy trì và mở rộng tín dụng thì vốn ngân hàng huy động được sẽ bị ứ đọng, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho phần vốn ứ đọng trong khi không có thu nhập từ lãi cho vay khiến cho ngân hàng bị thua lỗ, và có khả năng rơi vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, việc nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động tín dụng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng phát triển thêm các hoạt động khác như mở tài khoản tại ngân hàng, dịch vụ tư vấn, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền . kết quả là ngân hàng vừa tăng được nguồn vốn, vừa phát triển được các hoạt động dịch vụ tăng thu nhập và phân tán rủi ro.

    2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế.Tín dụng ngân hàng có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hoà lưu thông tiền tệ và thông qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

    Ngày nay, không một doanh nghiệp nào hoạt động mà không sử dụng vốn tín dụng cuả ngân hàng, bởi lẽ đối với các doanh nghiệp thì việc sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng có rất nhiều ưu điểm. Thực vậy, với hoạt động chuyên môn hoá trong việc huy động những khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng có khả năng tạo cho các doanh nghiệp nguồn vốn tức thời với chi phí thấp. So với chi phí vốn chủ sở hữu và chí phí vốn từ các khoản tín dụng thương mại thì chi phí vốn vay ngân hàng rẻ hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng được củng cố và tăng cường, ngân hàng và doanh nghiệp sẽ hỗ trợ nhau cùng phát triển, ngân hàng có thể tìm kiếm cho doanh nghiệp những khách hàng mới, và mở rộng các loại hình dịch vụ cho khách hàng như dịch vụ thanh toán, kho bãi .

    Hoạt động tín dụng gắn liền với công tác thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó góp phần ổn định quá trình lưu thông tiền tệ. Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, là đòn bẩy quan trọng trong việc tổ chức sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ có tín dụng ngân hàng mà các nhu cầu vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp đã được đáp ứng kịp thời. Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế.

    Nhà nước sử dụng tín dụng ngân hàng như một công cụ quan trọng phục vụ, thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện kiểm soát kinh tế, kích thích vật chất, tác động trực tiếp đến việc hình thành kế hoạch và nâng cao sản xuất, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ và củng cố hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.

    Tín dụng ngân hàng còn là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế. Đầu tư vốn ra nước ngoài và xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa các nước. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này, nhưng không có một tổ chức kinh tế hay cá nhân nào có thể đáp ứng tốt điều này. Vì vậy, ngân hàng với khả năng đặc biệt của mình là nơi cung cấp vốn cho các hoạt động này và thông qua đó góp phần mở rộng tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế với các nước.

    Như vậy, có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Nó là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển và nó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng mới có thể phát triển thêm các loại hình dịch vụ khác. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng tiềm Èn rất nhiều những rủi ro khó lường trước. Khi rủi ro này xảy ra thì ngân hàng không có khả năng thu hồi vốn và lãi một cách đầy đủ theo như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng đó chính là rủi ro tín dụng.

    3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng.
    Trong hoạt động kinh doanh luôn luôn có những khó khăn khiến dự định kinh doanh ban đầu có thể không đạt được như ý muốn, tất cả những khó khăn đó gọi là rủi ro. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đa dạng phong phú, vì vậy rủi ro đe doạ nó cũng có nhiều hình thái khác nhau. Theo loại hình rủi ro gắn với hoạt động kinh doanh có thể chia ra rủi ro của ngân hàng làm các loại rủi ro chính như : rủi ro về ngân qũy, rủi ro về chứng khoán, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tín dụng, rủi ro tài sản khác. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro hay xảy ra nhất và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

    Rủi ro tín dụng đó là tình trạng người vay vốn ngân hàng cố tình hoặc không có khả năng hoàn trả một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng. Rủi ro tín dụng có hai loại là :

    - Rủi ro sai hẹn : Là rủi ro khi người vay vốn không hoàn trả đủ gốc và lãi tiền vay đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng.

    - Rủi ro mất vốn : Là rủi ro khi người vay vốn ngân hàng không hoàn trả gốc tiền vay một cách đẩy đủ.

    Tuy nhiên, dưới hình thức nào đi nữa thì rủi ro tín dụng cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Mức độ của rủi ro tín dụng thường được biểu hiện qua một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.

    4. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
    4.1 Nợ quá hạn.
    Nợ quá hạn là biểu hiện đặc trưng nhất của rủi ro tín dụng. Nợ quá hạn được hiểu là những khoản tín dụng ngân hàng mà vì nguyên nhân nào đó không được thanh toán đủ và đúng thời hạn như trong hợp đồng tín dụng.

    Như vậy, nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, khi người đi vay vi phạm nguyên tắc của tín dụng : Hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn, gây đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người được cấp tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì thể hiện càng nhiều các khoản nợ chưa được thanh toán đúng thời hạn, như vậy mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng sẽ càng lớn.

    Nợ quá hạn là rủi ro trong hoạt động tín dụng và là vấn đề của tất cả các ngân hàng thương mại ở mọi quốc gia, nó làm đau đầu các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này. Yếu tố rủi ro là một yếu tố tồn tại song song với hoạt động kinh doanh trong mọi lĩnh vực, nó là yếu tố ngẫu nhiên khó có thể đoán trước được. Vì vậy, cũng phải nhìn nhận nợ quá hạn như một hiện tượng bình thường của hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ nợ quá hạn quá cao thì hoạt động của ngân hàng sẽ bị tê liệt, vì ngân hàng không thu hồi được vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh khác và để trả tiền cho người gửi tiền, trường hợp này có thể dẫn đến đổ vỡ ngân hàng. Do đó vấn đề quản lý rủi ro tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ quá hạn là một công tác hết sức quan trọng đối với mọi ngân hàng thương mại. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ ở mức từ 3% đến 5% là có thể chấp nhận đựợc trong hoạt động tín dụng, và được coi là ngưỡng an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng là của nền kinh tế.

    Nợ quá hạn có nhiều loại hình khác nhau, mỗi loại phản ánh rủi ro tín dụng ở một góc cạnh khác nhau. Việc phân loại nợ quá hạn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của tín dụng, và trong việc đề ra các biện pháp xử lý thu hồi nợ.

    - Xét theo thời gian quá hạn có thể chia nợ quá hạn thành ba loại chính sau:

    + Nợ quá hạn dưới 6 tháng - những khoản nợ quá hạn này thường coi là có mức độ rủi ro thấp.
    + Nợ quá hạn từ 6 đến 12 tháng - những khoản nợ này thường được coi là có mức độ rủi ro bình thường.
    + Nợ quá hạn trên 12 tháng - những khoản nợ này thường được coi là có mức độ rủi ro cao nhất, và có nguy cơ gây mất vốn cho ngân hàng.

    Tuy nhiên cũng có trường hợp nợ quá hạn dưới 1 năm vẫn được coi là có mức độ rủi ro cao gây mất vốn cho ngân hàng như nợ quá hạn do con nợ lừa đảo, con nợ bị phá sản, giải thể hay con nợ bị chết hay mất tích.

    - Xét theo khả năng thu hồi có thể chia nợ quá hạn theo 3 loại sau:
    + Nợ quá hạn có thể thu hồi 100%.
    + Nợ quá hạn có thể thu hồi một phần.
    + Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.

    Việc phân loại các khoản nợ quá hạn theo khả năng thu hồi phản ánh rõ nhất về mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi càng cao thì rủi ro về nguy cơ mất vốn của ngân hàng càng lớn. Tuy nhiên, việc phân loại này thường khó chính xác vì khả năng thu hồi của khoản nợ chỉ được xác định theo những nghiên cứu và dự đoán.

    4.2 Tổn thất tín dụng.
    Tổn thất tín dụng thể hiện rõ ràng nhất của rủi ro tín dụng đó là sự mất vốn trong hoạt động tín dụng. Tổn thất tín dụng được thể hiện là những khoản vay không thu hồi được. Tổn thất tín dụng được đo lường bằng chỉ tiêu tổn thất tín dụng ròng :

    Tổn thất tín dụng ròng = Khoản vay bị mất - Giá trị thu hồi được.

    4.3. Rủi ro tín dụng tiềm năng

    Ngoài nợ quá hạn, tổn thất tín dụng là chỉ tiêu có thể đo lường được thì rủi ro tín dụng còn được thể hiện bởi những rủi ro tiềm năng. Ví dụ, ngân hàng cho khách hàng vay vốn với thời hạn 6 tháng, nhưng chưa đến thời hạn trả nợ thì khách hàng đã rơi vào tình trạng sắp giải thể như vậy khoản vay này mặc dù chưa quá hạn nhưng cũng được coi là một khoản nợ đầy rủi ro mất vốn. Rủi ro tiềm năng là chỉ tiêu không thể đo lường được, và việc xác định thường được cũng rất khó phải dựa trên những phân tích và phán đoán tình hình, xu hướng của hoạt động tín dụng, của hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, cũng như của nền kinh tế.
    5. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

    5.1. Nguyên nhân khách quan.
    Nguyên nhân khách quan có thể ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là những rủi ro bất khả kháng xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người. Nguyên nhân khách quan có rất nhiều và đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực và có tính chất rất khác nhau, khó có thể dự đoán trước. Có thể đưa ra một số nguyên nhân chính sau:

    5.1.1. Thiên tai, dịch bệnh phá hoại sản xuất kinh doanh:
    Đây là những biến cố khách quan không thể lường trước được, nó có tác động trực tiếp và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều khi những biến cố này làm cho ngân hàng cho vay bị mất trắng không thể thu hồi được khoản nợ. Thiên tai và dịch bệnh không loại trừ ai, nó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ vay của người đi vay.

    5.1.2. Hoàn cảnh kinh tế xã hội trong nước:
    Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng chịu ảnh hưởng tác động trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Trong một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Nhưng trong một nền kinh tế bị khủng hoảng, đang đà xuống dốc, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu tư giảm sút, thu nhập của mọi thành viên trong xã hội đều bị giảm thì khả năng phát triển sản xuất kinh doanh là rất kém. Tác động xấu của tình hình kinh tế xã hội như vậy sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cho ngân hàng, phát sinh nợ quá hạn.
    Nếu nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt, chỉ số giá cả tăng cao, đồng tiền nội địa bị mất giá, thì sản xuất kinh doanh trong nước sẽ trở nên khó khăn, tác động xấu đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng.
    5.1.3. Sù thay đổi chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước.
    Đây cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro cho kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Trong trường hợp có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các Bộ, các ngành trong nền kinh tế. Những thay đổi và điều chỉnh đó là rất cần thiết cho quá trình phát triển của đất nước, nhưng tuỳ nơi, tuỳ lúc sẽ tác động tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn trả tín dụng của khách hàng đối với ngân hàng. Do tính chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến rất nhiều Bộ, ngành và lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, mỗi thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước cũng đều tác động tới kết quả hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng - một hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng.

    5.1.4. Môi trường pháp lý.
    Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh rủi ro tín dụng của ngân hàng. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ đồng bộ, không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.

    5.1.5. Các nguyên nhân khác.
    Ngoài các nhân tố trên còn có rất nhiều nhân tố khác trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng, gây ra các khoản nợ quá hạn, tổn thất cho ngân hàng. Như sự cung cấp thông tin của các quan chức có liên quan về khách hàng của ngân hàng không đầy đủ, chính xác, hay rủi ro trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, hoặc thiếu các chính sách, chế độ luật pháp khác của ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường như việc quy định các chế độ báo cáo tài chính, kiểm toán, luật cung cấp và sử dụng thông tin về doanh nghiệp.
    Trong các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng, thì nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân khó phòng tránh nhất thậm chí là bất khả kháng. Tuy nhiên, cũng có thể giảm bớt tổn thất nếu dự đoán đúng xu hướng để thực thi chính sách phân tán rủi ro hợp lý. Tổn thất do nguyên nhân khách quan thường thường chiếm tỷ trọng không lớn, và các ngân hàng thương mại thường được chia sẻ bởi các công ty bảo hiểm hoặc được Nhà nước giúp đỡ.

    5.2. Nguyên nhân chủ quan.
    Nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng có từ hai phía:
    5.2.1. Từ phía người vay
    Nguyên nhân từ phía người vay là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro tín dụng. Người vay có thể do vô ý hay cố ý không thực hiện trả nợ vay cho ngân hàng đúng hạn. Nhìn chung nguyên nhân này có thể nắm bắt và đối phó được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc giám sát, kiểm tra và quản lý khách hàng trước, trong và sau khi phát tiền vay cho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng có thể xem xét trên các mặt sau :

    - Do năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng còn hạn chế. Một doanh nghiệp khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư đã không tính hết những biến động thị trường nên đã bị thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, dù người vay đã tính toán phương án sản xuất kinh doanh một cách chi tiết, toàn diện, khoa học chính xác tới mức tối đa thì đó cũng chỉ là dự đoán, trên thực tế hoạt động kinh doanh luôn gặp những biến cố rủi ro ngoài ý muốn của con người làm đảo lộn mọi kế hoạch sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã xây dựng từ trước, tác động đến kết qủa sản xuất kinh doanh của họ.

    - Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, khả năng thanh toán chung bị giảm sút, yếu kém. Năng lực tài chính là chỉ tiêu cơ bản biểu hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ cuả doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản chi nhất thời quá lớn như thanh toán nợ thuế, nợ tiền lương của cán bộ công nhân viên, nợ người bán nợ các ngân hàng khác .Cơ cấu vốn đầu tư của các doanh nghiệp không hợp lý như : tăng quy mô đầu tư tài sản cố định lên quá mức cần thiết gây lãng phí, hay tập trung vốn đầu tư dài hạn mà không dự phòng hợp lý nguồn vốn lưu động .Tất cả những biểu hiện tài chính nói trên, đều gây nên khó khăn trong việc trả nợ đúng hạn của khách hàng đối với ngân hàng, tạo ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng.

    - Do ý muốn chủ quan của người đi vay cố tình không trả nợ cho ngân hàng. Đây là một trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nó được biểu hiện là một hành động có chủ ý của người vay, được tính toán chuẩn bị trước nhằm chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng. Loại nguyên nhân này được xếp vào loại nguyên nhân rủi ro về tư cách đạo đức của người đi vay. Khi thẩm định một dự án vay vốn, có ý kiến cho rằng yếu tố tư cách đạo đức của người đi vay không liên quan đến chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy yếu tố đạo đức lại là nguyên nhân rất quan trọng trong việc trả nợ cho ngân hàng. Người cho vay có thể có khả năng nhưng cố tình không trả nợ cho ngân hàng, lừa đảo hòng chiếm đoạt tiền vay của ngân hàng. Những trường hợp như vậy, phần lớn các ngân hàng cần phải có sự can thiệp giúp đỡ của pháp luật.

    Rủi ro từ phía khách hàng luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là chủ yếu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức tạp vì các ngân hàng thường có rất nhiều đối tượng khách hàng có tính cách, bản chất, trình độ khác nhau: sản xuất kinh doanh ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau vận động theo những chiều hướng khác nhau. Đối với loại rủi ro này, ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án trước khi cho vay, tăng cường công tác giám sát thực hiện khoản vay và thực hiện đa dạng hoá đầu tư nhằm phân tán rủi ro.

    5.2.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
    Ngoài nguyên nhân từ phía người đi vay, nguyên nhân chủ quan còn bao gồm những thiếu xót, khuyết điểm từ phía ngân hàng.

    Trước hết phải nói đến là ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất quán, lại chịu nhiều sức Ðp phi kinh tế từ nhiều phía nên đã đặt ra những quyết định tín dụng sai lầm, mà hậu quả là không ai chịu trách nhiệm về khối nợ quá hạn gia tăng. Đồng thời các ngân hàng thường bị giằng xé giữa các hoạt động và nhiệm vụ cho vay ưu đãi trong khi các tiêu chuẩn tín dụng lại thiếu một cách rõ ràng nhất quán tạo ra khe hở lớn cho kẻ xấu lợi dụng. Chính sách tín dụng ở đây phải hiểu theo nghĩa đầy đủ bao gồm định hướng chung trong việc cho vay. chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, về loại khách hàng và ngành nghề được quan tâm, ưu tiên, quy trình xét duyệt hồ sơ cho vay cụ thể. Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đúng đắn và không thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn, không đem lại hiệu quả kinh tế, chiếm dụng vốn của ngân hàng dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.


    Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được trình bày cụ thể trong các trường hợp sau :

    - Năng lực thẩm định dự án cho vay còn yếu nên đã cho vay những dự án không khả thi, nhiều rủi ro, không có khả năng thu hồi vốn. Cán bộ tín dụng chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành nghề mà mình cho vay, trong khi ngân hàng không có đủ thông tin các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng, phân tích khả năng thị trường tiêu thụ hiện tại và tương lai, tính toán chu kỳ, vòng đời sản phẩm . dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng. Việc cán bộ tín dụng thiếu năng lực còn dẫn đến hiện tượng không phát hiện được những sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay định giá tài sản bảo đảm không hợp lý có thể gây ra những tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình gán tài sản đó cho ngân hàng.

    - Sự yếu kém và lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám sát việc thực hiện khoản vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay không đúng mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng.
    - Bên cạnh vấn đề thiếu và yếu năng lực, đôi khi một bộ phận cán bộ ngân hàng kém phẩm chất đạo đức lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc.
    - Ngân hàng quá chủ quan, tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc chắn cho sù thu hồi cả gốc và lãi tiền vay mà coi nhẹ việc kiểm tra đôn đốc, giám việc thực thi dự án, phòng ngừa rủi ro, đồng thời không nắm rõ tình hình sử dụng tiền vay của khách hàng, do đó không có các biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời khi các khoản vay có dấu hiệu xấu trong quá trình sử dụng dẫn tới khả năng trả nợ của khách hàng không đảm bảo, xảy ra nợ quá hạn thậm chí tổn thất cho ngân hàng.

    - Ngân hàng chạy theo số lượng mà không coi trọng chất lượng đầu tư, quá lạc quan, tin tưởng vào sự thành công của dự án đầu tư, vào khoản cho vay, đây là một hiện tượng rất nguy hiểm trong công tác tín dụng của ngân hàng. Một số ngân hàng đã quá ham mở rộng tín dụng, quá ham khi gặp những thượng đế nên đã quyết định cho vay mà không lường trước được những rủi ro và biện pháp phòng ngừa.

    - Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro.

    - Hệ thống kiểm soát của ngân hàng quá yếu kém và lỏng lẻo kiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay, làm cho nguy cơ tổn thất tín dụng của ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này.

    - Sự hợp tác giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí một số các ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng, và điều đó dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Chính vì vậy ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc họ sử dụng khoản vay có đúng mục đích không.

    Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ, hoặc thường phải kết hợp với các nguyên nhân từ phía khách hàng. Tuy nhiên hậu quả từ phía ngân hàng thường khó khắc phục, đặc biệt khi có sự cấu kết, thông đồng giữa ngân hàng và khách hàng để vụ lợi, lừa đảo.
    Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra các ngân hàng thường xuyên phải rà soát các khoản vay đã thực hiện, tìm ra những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng đối với chính ngân hàng mình để có thể tìm ra biện pháp khắc phục kịp thời.

    6. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
    Như chóng ta đã biết, hoạt động của người đi vay luôn chịu sự tác động và biến động của thị trường, nguy cơ rủi ro tín dụng từ phía họ càng lớn hơn khi thị trường vận động theo tính thiếu sự ổn định tương đối. Vì thế, nếu như việc quyết định cho vay dựa trên cơ sở những dự đoán về biến động của thị trường, thì sau khi cho vay cần thiết phải tiếp tục xem xét người vay đã sử dụng số tiền vay như thế nào, và đặc biệt là họ xử sự như thế nào trước những biến động của thị trường. Hơn nữa, những tài sản của họ làm bảo đảm cũng là một loại hàng hoá trên thị trường nên cũng chịu sự biến động và sự hao mòn vô hình. Thực tế cho thấy, nhiều món vay đã có tài sản làm bảo đảm những rủi ro không thu được nợ vẫn xảy ra, vì tài sản không hội đủ yếu tố pháp lý, khó mua bán hoặc định giá quá cao, hoặc bị giảm giá, hoặc doanh nghiệp vay vốn sử dụng vào những hoạt động giảm giá . Chính vì vậy, việc phát hiện sớm những dấu hiệu có nguy cơ dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng là một yêu cầu không thể thiếu. Có rất nhiều dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng, dưới đây là một số dấu hiệu dễ nhận thấy nhất :

    - Người đi vay cố tình trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính cho ngân hàng.

    - Khi cán bộ tín dụng có yêu cầu khảo sát thực tế, người vay cố tình chậm trễ trong việc dàn xếp các cuộc viếng thăm trụ sở, cơ sở sản xuất của mình, có biểu hiện thiếu thiện chí trong mối quan hệ tin cậy, hợp tác với ngân hàng.

    - Sử dụng vốn sai mục đích.
    - Vòng quay vốn tín dụng thực tế nhỏ hơn so với phương án kinh doanh ban đầu, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong kinh doanh của người vay và vốn vay của ngân hàng bị chiếm dụng.

    - Số dư trên tài khoản tiền gửi của người vay tại ngân hàng giảm sút, hiện tượng rút séc quá số dư hoặc séc thanh toán bị trả lại.
     
Đang tải...