PHẦN MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau 20 năm đổi mới, mặc dù đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá mạnh theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1998 là 46,3% và đến năm 2005 còn 20,5% [3]; nhưng nhìn chung Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với 67% lao động nông nghiệp và 1/3 kim ngạch xuất khẩu là từ nông nghiệp [7]. “Nông nghiệp là nền tảng để ổn định kinh tế - xã hội” [12], là một ngành quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam về phương diện việc làm và an ninh lương thực. Trong Báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đã chỉ rõ định hướng phát triển ngành nông nghiệp là: ”Phải luôn coi trọng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển mạnh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch Xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát” [18]. Trong những năm qua; sản xuất nông, lâm nghiệp của Yên Bái đã được chú trọng đầu tư phát triển khá toàn diện. Bước đầu hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung như vùng lúa thâm canh 10.000 ha, vùng sắn cao sản 9.000 ha, vùng chè 12.000 ha, tre măng bát độ 1.500 ha, vùng rừng trồng sản xuất 100.000 ha, vùng quế 25.000 ha [27]. Kinh tế trang trại đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, hiện nay toàn tỉnh hiện có 319 trang trại [14]. Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Yên Bái lần thứ XVI (Nhiệm kỳ 2005 - 2010) đã xác định: “Ưu tiên xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá, đa dạng, chất lượng, hiệu quả và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo vùng, ngành hàng, sản phẩm chủ lực và tăng cường thâm canh cao” [26].