Luận Văn Giải pháp phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Thảo luận trong 'CNXH Khoa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Sau một thời gian dài duy trì kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình kinh tế này sau khi làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó: tập trung sức mạnh của cả nước vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi hoàn thành vai trò lịch sử của mình, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi lực lượng sản xuất còn chưa phát triển đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế, triệt tiêu nguồn lực phát triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta sớm nhận ra sai lầm của mình đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN ). Quá trình đổi mới này được tiến hành dần dần từng bước. Đến nay sau 15 năm thực hiện đổi mới chúng ta thu được những thành tựu hết sức quan trọng. Đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và tăng trưởng: Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta đã tiến tới đảm bảo đủ lương thực và các vật chất sinh hoạt cho đời sống và cả tích lũy cho ngân sách nhà nước. Bộ mặt đất nước có rất nhiều thay đổi. Những nhân tố thị trường dần được hình thành đồng bộ và hoạt động có hiệu quả. Sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về phương thức lãnh đạo và điều hành tạo thành một cơ chế điều tiết nền kinh tế thị trường (KTTT) một cách có hiệu quả, phát huy nội lực kết hợp ngoại lực đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH).
    Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được nền KTTT định hướng XHCN của ta còn nhiều hạn chế cần phải nghiên cứu tìm cách giải quyết. Nhằm mục tiêu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN tạo động lực sức mạnh cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
    Những mặt hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay đó là:
    Nền kinh tế còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố thị trường văn minh còn ít hơn là những yếu tố thị trường sơ khai. Mặt khác, trong xã hội cũng xuất hiện một số nhân tố đi quá xa vượt quá giới hạn của nền KTTTđịnh hướng XHCN ví dụ như: Những nhân tố của nền kinh tế , tình trạng thương mại hóa giáo dục, nhân phẩm.
    Trình độ thấp kém chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của KTTT ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ: Giá cả hàng hoá và dich vụ còn bị bóp méo, độc quyền còn qúa lớn, tỷ giá chưa phải do thị trường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường Quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nên mất khả năng cạnh tranh.
    Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó.
    Các thể chế cho thị trường còn qúa thiếu; không ít những thể chế chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của KTTT.
    Sau sự can thiệp của nhà nước vào thị trường còn chưa thật phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết với các bộ phận thoái hóa trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra như tham nhũng, nợ nần chồng chất.
    Trước những hạn chế và tồn tại nói trên để giải quyết được đòi hỏi chúng ta cần phải nắm rõ bản chất, những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Căn cứ vào tình hình thực tế để có những giải pháp đồng bộ thiết thực hiệu quả khắc phục tình trạng trên.
    Đề án này xin khẳng định lại tính thiết yếu của việc chuyển sang KTTT định hướng XHCN ở nước ta, khẳng định con đường phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đồng thời xin nêu ra một số
    những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó đánh giá những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần phải giải quyết và cũng xin đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. Nhằm đạt được mục tiêu CNH- HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
    Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này xin được đề cập tới những vấn đề cơ bản nhất về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
    Bài viết này được hoàn thành với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Mai Hữu Thực.
    Em xin chân thành cám ơn thầy!

    NỘI DUNG
    I) Sự cần thiết phải chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

    Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN phản ánh hậu quả của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi đã làm xong vai trò lịch sử của nó là tập trung sức mạnh của dân tộc trong điều kiện khớ khăn, thiếu thốn đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đồng thời cũng phản ánh những sai lầm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải tạo nền kinh tế ngay khi đất nước thống nhất.
    Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng vào đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi mới nền kinh tế, chuyển dần nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN .
    1) Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN .
    Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của người chiến thắng. Cả nước bắt tay vào xây dựng XHCN , Đảng và Nhà nước ta vẫn duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong giai đoạn mới: kiến thiết đất nước trong hoà bình đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu với cơ chế quản lý thống nhất, tập trung theo kế hoạch trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất.
    Trước đổi mới kinh tế (1986) tình hình nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng yếu kém.
    Cở sở vật chất kỹ thuật vốn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu thêm do nhiều năm không được đổi mới. Kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất nghèo nàn lạc hậu.
    Bức tranh nền kinh tế Việt Nam 10 năm (1976-1985) trước đổi mới là: mức tăng trưởng thấp (3. 7%/ năm), làm không đủ ăn và nhờ vào viện trợ nước ngoài ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập quốc dân sử dụng (Năm 1976:78. 5%, năm 1985:69. 8%).
    Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ các nguồn viện trợ cho vay từ bên ngoài chiếm 10. 2% thu nhập quốc dân sử dụng. Tính chung 5 năm (1981-1985) nguồn thu nước ngoài chiếm 22. 4% thu ngân sách, 28. 9% thu trong nước và 18. 5% tổng thu ngân sách, nợ nước ngoài 8. 5 tỷ rúp và 1. 9 tỷ USD. Điều đáng chú ý là nợ nần chồng chất nhưng bội chi ngân sách vẫn rất lớn và tăng dần. Năm 1980 18. 1%, năm 1980 36. 6%, buộc phải bù đắp bằng phát hành tiền.
    Cũng vào năm đó, những sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền lương đã làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774% năm 1986 kéo theo giá leo thang và vô phương kiểm soát.
    Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả.
    Trước đổi mới kinh tế Việt Nam chủ yếu là nước nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ chiếm chưa đến 50% GDP.
    Đầu tư vào công nghiệp nặng quá nhiều, công nghiệp nhẹ không được quan tâm đúng mức dẫn đến hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trở nên khan hiếm, giá cả tăng vọt làm cho mặt trận lưu thông rối ren.
    Đầu tư của Nhà nước dàn trải kém hiệu qủa. Các dự án đầu tư của Nhà nước tập trung vào các công trình công nghiệp nặng hoặc vào những công trình xây dựng kết cấu hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của nền kinh tế quốc dân, trình độ khoa học còn lạc hậu dẫn đến các công trình dở dang kéo dài gây lãng phí rất lớn.
    Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó.
    Một thời gian dài ở nước ta đã tồn tại quan điểm cho rằng những tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy vì vai trò
     
Đang tải...