Thạc Sĩ Giải pháp phát triển Franchising hệ thống tại Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sỹ kinh tế: Giải pháp phát triển Franchising hệ thống tại Việt Nam
    1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ------------ HUỲNH THỊ HÒA GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN FRANCHISING HỆ THỐNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HÀ NỘI - 2007
    2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ------------ HUỲNH THỊ HÒA GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN FRANCHISING HỆ THỐNG TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THANH BÌNH HÀ NỘI - 2007
    3. LỜI CẢM ƠN Tác giả của luận văn xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Sau Đại học Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, đặc biệt là sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của TS. Nguyễn Thanh Bình. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của bạn bè đồng nghiệp và gia đình cũng là nguồn động viên hết sức quý báu cho tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tuy tác giả đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được những góp ý, chỉ bảo của thầy cô, bạn bè đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn nhằm góp phần phát triển franchising hệ thống tại Việt Nam. Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2007 Tác giả Huỳnh Thị Hòa
    4. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kết quả điều tra doanh nghiệp Việt Nam năm 2006 của Tổng Cục Thống Kê (GSO) và ngân hàng Thế Giới (WB) tại Việt Nam công bố ngày 6/12/2006 thì quy mô của doanh nghiệp Việt Nam là nhỏ và siêu nhỏ, đi kèm là trình độ kỹ thuật công nghệ vẫn còn thấp, trình độ quản lý còn yếu kém. Trong tổng số lượng 113.352 doanh nghiệp, có đến 97% doanh nghiệp vừa và nhỏ với tổng vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng. Và cũng theo nghiên cứu mới nhất đến 90% doanh nghiệp có thương hiệu tại Việt Nam là các doanh nghiệp nước ngoài. Từ thực tế trên, yêu cầu đặt ra cho chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam là cần sớm có ngay các giải pháp khắc phục trong việc mở rộng quy mô của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Thiết nghĩ một trong những giải pháp tối ưu trong giai đoạn hiện nay là nhân rộng và phát triển hình thức franchising - nhượng quyền kinh doanh- một loại hình kinh doanh đã được chứng minh thực tiễn về tính hiệu quả trên toàn thế giới. Đây sẽ là một trong những con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất trong việc mở rộng quy mô của các doanh nghiệp và thúc đẩy phát triển kinh tế nước nhà. Theo các chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng không có một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà không cần đến sự góp sức năng động của mô hình franchising. Hay nói đúng hơn franchising là chất xúc tác giúp nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện nhanh nhất cho các doanh nghiệp chia sẻ kinh nghiệm, nhân rộng thành công và ngược lại cũng là giải pháp ít rủi ro nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thừa hưởng những thành công có sẵn làm tiền đề cho sự phát triển ổn định và lâu dài trong sự nghiệp mới của mình. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng ngay những đặc tính ưu việt của mô hình nhượng quyền kinh doanh vào nền kinh tế Việt Nam để làm công cụ hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp và của nền kinh tế.
    5. 2 Là một học viên chuyên ngành kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, em có ước mơ được khởi nghiệp từ những kiến thức của mình thông qua việc xây dựng một doanh nghiệp cho riêng mình, em đã luôn luôn tìm hiểu về các cơ hội để đầu tư, với kinh nghiệm rất ít của mình em thiết nghĩ việc thừa kế những gì có sẵn và tiếp tục phát huy là sự bắt đầu dễ dàng và ít rủi ro nhất cho Em. Từ những lý do trên, em chọn: “Giải pháp phát triển franchising hệ thống tại Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh hình thức franchising đã được áp dụng thành công trên thế giới, chính vì vậy đã có nhiều đề tài nghiên cứu, sách giáo khoa, báo, tạp chí và các trang web nói về franchising, có thể kể đến cuốn “Franchising for dummies” của tác giả Dave Thomas & Michael Seid hay cuốn “Tips & traps when buying a franchise” của tác giả Mary E.Tomzack. Trong khi đó ở Việt Nam, đề tài này vẫn còn rất mới mẽ cả về lý luận cũng như thực tiễn. Việt Nam có thể kể đến cuốn “Franchise- Bí quyết thành công bằng mô hình nhượng quyền kinh doanh ở Việt Nam” hay cuốn “ Mua franchise- Cơ hội mới dành cho các doanh nghiệp Việt Nam “của TS Lý Quí Trung. Nội dung này còn được nghiên cứu trong các đề tài của giáo viên, sinh viên Trường Đại Học Ngoại Thương về Franchising. Tuy nhiên các đề tài này chỉ nghiên cứu toàn diện về franchising thương hiệu, do đó đây sẽ là công trình nghiên cứu mới, độc lập và chuyên sâu về một trong những hình thức của franchising là franchising hệ thống. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về franchising hệ thống, đánh giá hoạt động franchsing hệ thống của một số doanh nghiệp điển hình trên thế giới và tại Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp phát triển loại hình này tại Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
    6. 3 - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về franchising hệ thống; - Phân tích mô hình hoạt động franchising hệ thống của một số doanh nghiệp nước ngoài; - Đánh giá mô hình hoạt động franchising hệ thống của một số doanh nghiệp Việt Nam điển hình; - Phân tích triển vọng phát triển franchising hệ thống tại Việt Nam trong thời gian tới; - Đề xuất các giải pháp phát triển franchising hệ thống tại Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động franchising hệ thống tại các doanh nghiệp trên thế giới và Việt Nam - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài phân tích hoạt động franchising hệ thống tại các doanh nghiệp Việt Nam, kết hợp phân tích hoạt động franchising hệ thống của các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tập hợp kinh nghiệm áp dụng vào thực tiễn của Việt Nam. Đề tài sẽ không đi sâu nghiên cứu một franchising cụ thể cũng như không đưa ra một mô hình áp dụng cụ thể nào. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên các phương pháp sau: - Thống kê - nghiên cứu, - Thu thập tài liệu và tổng hợp- phân tích, - Phương pháp so sánh, - Phương pháp mô tả khái quát. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 03 chương: Chương I Khái quát chung về franchising hệ thống Chương II Hoạt động franchising của một số hệ thống điển hình trên thế giới và Việt Nam Chương III Giải pháp phát triển franchising hệ thống tại Việt Nam.
    7. 4 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FRANCHISING 1.1. Các khái niệm cơ bản về franchising 1.1.1. Một số định nghĩa về franchising Có nhiều định nghĩa về Franchising, trước hết xin tham khảo định nghĩa của Uỷ Ban Thương Mại Liên Bang Hoa Kỳ: Franchising là một hợp đồng hay một thoả thuận giữa ít nhất hai người, trong đó người mua franchise được cấp quyền bán hay phân phối sản phẩm, dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thị của chủ thương hiệu. Hoạt động kinh doanh của người mua franchise phải triệt để tuân theo kế hoạch hay hệ thống tiếp thị này gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí, quảng cáo và những biểu tượng thương mại khác của chủ thương hiệu. Và người mua franchise phải trả một khoản phí, gọi là phí franchise [12, tr.11]. Định nghĩa trên tuy khá dài và chi tiết nhưng chủ yếu tập trung làm rõ nội dung các quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền (chủ yếu là quyền và nghĩa vụ của bên mua franchise). Trong khi đó, tác giả Awalan Abdul Aziz của cuốn “A guide to Franchising in Malaysia” (Hướng dẫn nhượng quyền thương mại tại Malaysia) lại nhấn mạnh franchising dưới góc độ mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận nhượng quyền: Franchising là một phương thức tiếp thị và phân phối sản phẩm hay dịch vụ dựa trên mối quan hệ giữa hai đối tác: một bên được gọi là franchisor (người bán franchise) và một bên gọi là franchisee (người mua franchise). Bên mua franchise được cấp phép sử dụng thương hiệu của bên bán franchise để kinh doanh tại một địa điểm hay một khu vực nhất định, trong một khoản thời gian nhất định [12.tr.12]. Về khía cạnh này, Hiệp hội Nhượng quyền thương mại quốc tế cũng có chung quan điểm “Franchising là mối quan hệ liên tục trong đó người bán franchise cấp cho bên mua franchise quyền được kinh doanh (sản phẩm/dịch vụ
    8. 5 của doanh nghiệp), cộng với những hỗ trợ về tổ chức, đào tạo, cách thức kinh doanh, quản lý, đổi lại nhận được một khoản tiền nhất định từ bên mua [13, tr.13]. Trong quan điểm này,“ Mối quan hệ liên tục” thể hiện đặc thù của phương thức kinh doanh nhượng quyền: quan hệ giữa người mua và người bán franchise không chấm dứt sau khi hợp đồng franchise ký kết mà liên tục được duy trì trong suốt quá trình hoạt động của cửa hàng franchise, cho đến khi chấm dứt thời hạn nhượng quyền theo quy định trong hợp đồng mới thôi. Hợp đồng franchise không phải mua đứt bán đoạn mà là sự khởi đầu của mối quan hệ hợp tác giữa hai chủ thể độc lập dựa trên sự tồn tại và phát triển kinh doanh. Còn ở Việt Nam, Luật nhượng quyền thương mại lần đầu tiên được quy định tại Luật thương mại có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Luật thương mại Việt Nam 2006 chính thức ban hành các quy định liên quan đến nhượng quyền thương mại – franchising trong mục 8, từ điều 284 đến điều 291, tại Chương IV. Trong luật đưa ra định nghĩa: Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hai điều kiện chính như sau:(i) Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii)Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận chuyển nhượng trong việc điều hành công việc kinh doanh [9]. Các định nghĩa trên đây theo tác giả đều tương đối rõ ràng và chi tiết, nhưng vẫn chưa đề cập đến một đặc điểm nổi bật của phương thức kinh doanh nhượng quyền là tính rủi ro khá thấp so với những phương thức kinh doanh khác, cũng như mối quan hệ đặc biệt giữa người bán và người mua franchise trong hợp đồng nhượng quyền. Từ việc muốn làm rõ bản chất, những đặc điểm nổi bật của hình thức kinh doanh nhượng quyền, luận văn tập trung nghiên cứu đi sâu vào một trong những hình thức của kinh doanh nhượng quyền là nhượng quyền kinh doanh
    9. 6 hệ thống (sau đây được gọi là franchising hệ thống). Theo tác giả franchising hệ thống là một sự liên kết hợp đồng giữa bên bán franchise hệ thống (nhà sản xuất hoặc tổ chức dịch vụ) với bên mua franchising hệ thống (người kinh doanh độc lập). Bên bán franchise hệ thống chuyển giao cho mượn thương hiệu và toàn bộ những gì liên quan đến hệ thống kinh doanh bao gồm thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ, biểu tượng, bộ nhận dạng hệ thống, quy trình dịch vụ, bí quyết kinh doanh, cách thức quản lý và tuỳ theo mức độ chuyển giao mà franchising hệ thống bao gồm yếu tố nào (Giá trị thương hiệu + Các yếu tố khác cấu thành hệ thốngfranchising hệ thống). Bên mua franchisie phải trả tiền bản quyền thuê hệ thống và tiền phí cho bên bán franhchise để được kinh doanh với tên và hệ thống của bên bán ftranchise tại một địa điểm nhất định trong một khoản thời gian nhất định được quy định rõ trong hợp đồng. Trong quá trình triển khai kinh doanh bên mua franchise phải triệt để tuân thủ theo đúng các tiêu chuẩn mà hệ thống đã quy định và được bên bán franchise liên tục trợ giúp để điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh. Để hiểu rõ hơn về franchising hệ thống, xin được làm rõ thêm về hai đối tượng chính của hợp đồng chuyển giao hệ thống là người bán franchise hệ thống và người mua franchise hệ thống được nêu trong bảng 1.1 và bảng 1.2 Bảng 1.1: Khác biệt cơ bản giữa người mua và người bán franchise hệ thống Người bán franchise hệ thống Người mua franchise hệ thống Sở hữu hệ thống chuyển nhượng (Thương Được cấp phép sử dụng hệ thống hiệu và các yếu tố khác cấu thành nên hệ thống) Cung cấp hỗ trợ: Đào tạo, quảng cáo, tiếp Điều hành hoạt động kinh doanh với sự thị giúp đỡ của bên bán franchise. Nhận phí từ việc bán franchise Trả phí mua franchise
    10. 7 Từ sự khác biệt trên dễ dàng nhận thấy mối liên hệ ràng buộc giữa bên bán và bên mua franchise là rất chặt chẽ và liên tục trong suốt quá trình hoạt động của hệ thống. Mức độ hợp tác giữa hai bên quyết định mức độ thành công của hệ thống chuyển nhượng. Bảng 1.2: Chức năng và nhiệm vụ của ngưới bán franchise hệ thống và người mua franchise hệ thống Người bán franchise hệ thống Người mua franchise hệ thống Chọn mặt bằng Hỗ trợ Chọn với sự đồng ý của chủ thương hiệu Thiết kế Cung cấp mẫu thiết kế áp dụng mẫu thiết kế, trả phí Nhân viên Giới thiệu hỗ trợ Tuyển dụng, giám sát, điều hành Thực đơn Xây dựng , quy đinh Thay đổi khi được chấp thuận Giá Đề nghị tư vấn Quyết định Nguồn cung Có thể yêu cầu bên mua franchise Phối hợp, tuân theo cấp mua hàng của mình hoặc theo chỉ định nguồn cung cấp cho hệ thống franchise, hoặc yêu cầu theo các tiêu chuẩn nhất định Quảng cáo Thiết kế chương trình, yêu cầu Trả phí quảng cáo, phải được đóng góp chấp thuận Kiểm soát chất Xây dựng tiêu chuẩn. Đào tạo Huấn luyện nhân viên. Triển lượng nhân viên. Thanh tra khai giám sát hàng ngày. Trong hoạt động franchising hệ thống cả hai bên bán và mua franchise đều có những chức năng và nhiệm vụ nhất định. Một franchising hệ thống được xem là thành công nếu cả hai bên thực hiện tốt các nghiệp vụ cụ thể nêu trên.
    11. 8 1.1.2. Lịch sử ra đời của franchising – franchising hệ thống Franchise có xuất xứ từ Châu Âu cách đây hàng trăm năm và sau đó lan rộng và bùng nổ tại Mỹ. Từ “franchise” có nguồn gốc từ tiếng Pháp là “franc” có nghĩa là “freedom”. Phương thức kinh doanh franchising bắt đầu hình thành trên thế giới từ đầu những năm 1850. Một trong những mô hình xuất hiện sớm nhất là chuỗi quán bar có cách bài trí giống nhau ở New South Wales hay kết quả của hợp đồng nhượng quyền giữa các khách sạn và nhà máy rượu. Cùng thời gian đó ở Đức, một số nhà máy bia có tiếng cũng tiến hành trao cho những quán nhất định trong vùng quyền được bán loại bia danh tiếng của họ. Đây là những hoạt động đầu tiên hình thành nên khái niệm franchising như chúng ta biết hiện nay. Qua thời gian, cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế thế giới, khái niệm franchising cũng dần phát triển và hoàn thiện. Tuy nhiên cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, hoạt động franchising mới chỉ dừng lại ở việc nhượng quyền phân phối và quyền bán sản phẩm, dịch vụ của bên bán franchise, với đội ngũ tiên phong là các nhà máy lọc dầu và các nhà sản xuất ô tô. Còn franchising hệ thống xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1919 với các chuỗi của hàng thức ăn nhanh, điển hình là thương hiệu A&W Root Beer. Tiếp đó là hoạt động franchising hệ thống của chuỗi khách sạn bên đường mang thương hiệu Howard Johnson. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II sự bùng nổ hàng loạt các chuỗi nhà hàng, khách sạn kinh doanh theo hình thức franchising và trở thành cuộc cách mạng bằng sự ra đời của Hiệp hội nhượng quyền thế giới (IFA – International Franchise Association) và một loạt Hiệp hội nhượng quyền ở những quốc gia có hình thức franchising phát triển mạnh như Mỹ, Anh, Autralia . Một nhân tố khác không thể thiếu là môi trường pháp lý, bao gồm luật và các thể chế, các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động franchising cũng được nhiều quốc gia ban hành và ngày càng hoàn thiện. Khi mới xuất hiện, người ta còn nghi ngờ về khả năng tồn tại của khái niệm này và không hoàn toàn tin tưởng vào nó. Nhưng ngày nay, franchising là một trong những mô hình kinh doanh phổ biến nhất thế giới và là bộ phận không thể
    12. 9 tách rời của nền kinh tế phát triển, tập trung phần lớn ở các ngành dịch vụ, bán lẻ, chuỗi khách sạn, nhà hàng, với các tên tuổi nhượng quyền hàng đầu thế giới như Mc Donald‟s, KFC, 7- Eleven, Wendy‟s Còn tại Việt Nam hình thức franchising còn khá mới. Giữa thập niên 90 đã có một vài doanh nghiệp kinh doanh theo mô hình này nhưng vẫn chưa thực sự sôi động, mãi đến năm 1998 hình thức franchising mới bắt đầu nở rộ với tên tuổi của một số doanh nghiệp nước ngoài như KFC, Mcdonald‟s, doanh nghiệp trong nước như Trung Nguyên, Phở 24, Kinh đô [12]. 1.1.3. Phân biệt Franchising hệ thống với các hình thức kinh doanh khác 1.1.3.1. Phân biệt franchising hệ thống với đại lý thương mại Cả hai hình thức kinh doanh này đều giống nhau là bên mua franchise hay bên nhận làm đại lý đều cùng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ cho bên bán franchise hay bên giao đại lý và đều có sự ràng buộc giữa hai bên, tuy nhiên mức độ ràng buộc của hai hình thức trên là khác nhau. Tuy nhiên, franchising hệ thống có sự ràng buộc chặt chẽ hơn giữa bên mua franchise và bên bán franchise. Trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh hệ thống bên mua franchise phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định của hệ thống và phải trả phí cho việc mua franchise. Còn với hình thức kinh doanh đại lý thương mại thì ít phức tạp và ít có sự ràng buộc giữa bên giao và bên nhận làm đại lý. Bên giao giao hàng cho đại lý thương mại và đại lý thương mại toàn quyền quyết định trong công tác tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh. Bên nhận làm đại lý không phải trả chi phí cho việc làm đại lý thương mại, được thu lợi từ tiền hoa hồng mà bên giao đại lý chi trả theo định kỳ căn cứ vào kết quả kinh doanh mà bên đại lý thương mại đạt được. Trong trường hợp này bên giao đại lý quy định giá bán thống nhất cho các đại lý trong một khu vực nhất định và đại lý chỉ được hưởng tiền hoa hồng từ việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ. Ngoài hình thức thu tiền hoa hồng thì các đại lý thương mại còn có hình thức thụ lợi khác là hưởng chênh lệch giữa giá mua vào và giá bán ra. Trong trường hợp này, bên giao hàng giao cho đại lý thương mại một mức giá thấp hơn giá mà đại lý thương mại bán ra còn đại lý thương mại hưởng lợi từ chênh lệch giá này.
    13. 10 1.1.3.2. Phân biệt franchising hệ thống với chi nhánh Trong hoạt động franchising hệ thống thì bên mua franchise là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoàn toàn độc lập với bên bán franchise, với tư cách là đối tác trong kinh doanh. Còn đối với hoạt động chi nhánh thì chi nhánh là đơn vị phụ thuộc vào doanh nghiệp và chịu sự điều hành trực tiếp của doanh nghiệp về mọi mặt 1.1.3.3. Phân biệt franchising hệ thống với kinh doanh theo mạng Giữa kinh doanh theo mạng và franchising hệ thống tồn tại một số khác biệt. Trong hệ thống kinh doanh theo mạng không có người làm công vì chính những người tham gia vào hệ thống kinh doanh theo mạng trả lương cho chính họ căn cứ vào doanh thu đạt được. Những người kinh doanh trong cùng một hệ thống là những nhà phân phối độc, họ tự tìm kiếm khách hàng và chủ động trong công việc, không chịu sự quản lý của ai. Họ làm việc theo hợp đồng, làm việc khi nào họ muốn, nơi nào họ thích, theo cách mà họ ưa chuộng, thông thường là công việc ngoài trời. Còn trong hoạt động franchising hệ thống người kinh doanh phải tuân thủ những quy định của hệ thống kinh doanh mà bên bán franchise đặt ra. Hay nói khác đi, khác với kinh doanh franchising hệ thống là phụ thuộc thì kinh doanh theo mạng là hoàn toàn tự nguyện, độc lập và không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ nào cả. Một sự khác biệt nữa giữa franchising hệ thống và kinh doanh theo mạng là về mô hình hình học. Đó là việc 100 người làm một thí nghiệm và một người làm điều đó 100 lần. Với franchising hệ thống thì các bên tham gia mua franchise cùng tuân thủ theo một mô hình kinh doanh nhất định, với kinh doanh theo mạng thì các bên tham gia vào hệ thống kinh doanh không phải tuân theo một nguyên tắc thống nhất nào cả [10]. 1.1.3.4. Phân biệt franchising hệ thống với li-xăng Cả hai hình thức franchising hệ thống và li- xăng giống nhau là đều liên quan đến một hợp đồng cấp phép, tuy nhiên mối quan hệ giữa người cấp phép và người được cấp phép trong hợp đồng franchising hệ thống có mối ràng buộc nhiều hơn so với li-xăng. Trong hợp đồng franchising hệ thống người bán franchise nhiều quyền hạn và kiểm soát chặt chẽ hơn với đối tác mua franchise, họ cũng có
    14. 11 nhiều trách nhiệm hơn đối với hoạt động kinh doanh của bên mua franchsise. Trong khi đó ở li-xăng người cấp phép chỉ quan tâm đến khoản phí li- xăng mà họ thu được và giấy phép li-xăng có được sử dụng đúng mục đích hay không. 1.2. Các hình thức của franchising 1.2.1. Căn cứ theo đối tượng chuyển nhượng, franchising được chia thành: franhchising thương hiệu và franchising hệ thống. Trong đó đa số các franchising thường gặp đều là franchising hệ thống. 1.2.1.1. Franchising thương hiệu: bên mua franchise thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ bên bán franchise ngoại trừ được phép sử dụng tên nhãn hiệu (trade mark), biểu tượng (logo), khẩu hiệu (slogan) và phân phối sản phẩm hay dịch vụ của bên bán franchise trong một phạm vi khu vực và thời gian nhất định. Điều này có nghĩa là bên mua franchise sẽ quản lý điều hành hệ thống kinh doanh của mình khá độc lập, ít bị ràng buộc nhiều bởi những quy định từ bên bán franchise. Bên mua franchise trong trường hợp này có thể cải biến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình. Hình thức franchising này tương tự với kinh doanh cấp phép (licensing) mà trong đó bên bán franchise quan tâm nhiều đến việc phân phối sản phẩm của mình mà không quan tâm mấy đến hoạt động hàng ngày hay tiêu chuẩn của hệ thống kinh doanh bên mua franchise. Do đó mối quan hệ giữa bên bán- bên mua là mối quan hệ nhà cung cấp - nhà phân phối. Hình thức franchising thương hiệu phổ biến nhất tại phương Tây là các trạm xăng dầu, các đại lý bán ô tô, các công ty giải khát như Coca-cola hay Pepsi. 1.2.1.2. Franchising hệ thống: franchising hệ thống phát triển cả về bề rộng và bề sâu so với franchising thương hiệu. Ngoài việc chuyển giao thương hiệu franchising hệ thống còn chuyển giao toàn bộ các yếu tố cầu thành nên hệ thống bao gồm thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ, biểu tượng, bộ nhận dạng hệ thống, quy trình dịch vụ, bí quyết kinh doanh, cách thức quản lý Các chuẩn mực kinh doanh phải tuyệt đối được giữ đúng. Mối quan hệ hợp tác giữa bên bán- bên mua franchise được quy định rất chặt chẽ và cụ thể trong hợp đồng. Bên mua franchise thường phải trả một khoản phí cho bên bán franchise, có thể là khoản phí trọn gói
    15. 12 một lần có thể là một khoản phí hàng tháng dựa trên doanh số và cũng có thể tổng hợp luôn cả hai khoản phí kể trên. Mức phí cao hay thấp phụ thuộc vào uy tín hệ thống, sự thương lượng và chủ trương của bên bán franchise. 1.2.2. Căn cứ theo hình thức bán, franchising chia thành franchising độc quyền; franchising riêng lẻ; franchising phát triển khu vực; liên doanh 1.2.2.1. Franchising độc quyền (Master franchise) đây là hình thức nhượng quyền mà trong đó bên bán franchise cấp phép cho bên mua franchise được độc quyền kinh doanh hệ thống của mình trong một khu vực, thành phố, lãnh thổ, quốc gia trong một thời gian nhất định. Trong trường hợp này, người mua franchise có thể bán franchise lại cho người thứ ba dưới hình thức franchising riêng lẻ (single- unit franchise hay franchising phát triển khu vực (area development franchise). Hoặc nếu người mua franchise không muốn bán lại cho người khác thì có thể tiếp tục mở cửa hàng trong khu vực hay lãnh thổ mà mình kiểm soát độc quyền. Người mua franchise thường phải cam kết mở bao nhiêu cửa hàng trong một thời gian nhất định, nếu không đáp ứng được đúng tiến độ như thoả thuận trong hợp đồng người mua franchise độc quyền dễ có nguy cơ bị cắt độc quyền trong khu vực đó. Ngoài số lượng các cửa hàng phải mở theo đúng kế hoạch đã thống nhất trong hợp đồng, người mua franchise độc quyền còn phải cam kết xây dựng các chương trình huấn luyện, đào tạo những người mua franchise sau này để đảm bảo chất lượng và uy tín của hệ thống. Do đó bên bán franchise yêu cầu đối tác tiềm năng mua franchise độc quyền phải lên một kế hoạch phát triển kinh doanh và quản trị hệ thống franchising trong vòng từ 3 đến 5 năm để xét duyệt trước khi cấp giấy phép. Do đó người mua franchise độc quyền, ngoài vốn kinh nghiệm trong lĩnh vực liên quan đến sản phẩm franchising, còn phải có tiềm lực vững chắc về tài chính và quản trị để có thể xây dựng một hệ thống phục vụ cho tất cả các cửa hàng trong khu vực độc quyền kinh doanh của mình. Một khi đã trở thành người mua franchising độc quyền của một hệ thống thì người mua sẽ có nhiều cơ hội lớn hơn để tiếp tục mua thêm các hệ thống kinh doanh khác vì các bên bán franchise hệ thống lúc nào cũng ưu tiên bán franchising độc quyền cho ai đó đã có kinh nghiệm, kỹ năng và tư duy để điều hành và phát triển một hệ thống franchising. Đối tác có
    16. 13 kinh nghiệm này sẽ biết cách bán franchising, biết cách thuê mặt bằng để kinh doanh, biết cách quảng bá thương hiệu thông qua các kênh truyền thông đại chúng và có sự hiểu biết về luật pháp liên quan đến franchising. 1.2.2.2. Franchising riêng lẻ (Single-unit franchising) là phương thức franchising khá phổ biến. Trong đó người mua franchise ký một hợp đồng franchising trực tiếp với người bán franchise và người bán franchise này có thể là chủ hệ thống hay chỉ là một đại lý độc quyền. Còn người mua franchise có thể là một cá nhân hay một công ty nhỏ được chủ hệ thống hay đại lý độc quyền giao quyền kinh doanh tại một địa điểm và một thời gian nhất định. Sau thời gian này, hợp đồng có thể được gia hạn và người mua franchise sẽ trả một khoản phí nhỏ để gia hạn hợp đồng. Lý do hợp đồng franchising phải có thời hạn là để người bán franchise có thể rút quyền kinh doanh hệ thống trong trường hợp đối tác mua franchise không tuân thủ các quy định chung của hệ thống hoặc kinh doanh kém hiệu quả, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín của hệ thống. Trong trường hợp này người mua franchise không được nhượng quyền lại cho người khác cũng như không tự ý mở thêm một cửa hàng mang cùng thương hiệu hệ thống. 1.2.2.3. Liên doanh là hình thức kinh doanh mà bên chủ franchising hệ thống hợp tác với một doanh nghiệp địa phương thành lập công ty liên doanh và công ty liên doanh này toàn quyền kinh doanh tại một thành phố, một quốc gia hay một khu vực nào đó. Cả hai đối tác trong công ty liên doanh đàm phán về cổ phần của mình và cách thức huy động vốn. Thông thường, doanh nghiệp địa phương sẽ đóng góp bằng tiền và kiến thức địa phương còn chủ hệ thống sẽ đóng góp chủ yếu bằng hệ thống kinh doanh cộng thêm vốn. Đây là hình thức kinh doanh mà chủ hệ thống không mấy ưu tiên do sẽ phải chấp nhận rủi ro tài chính một khi liên doanh thất bại. Do đó, chủ hệ thống thường chỉ đồng ý hình thức liên doanh này khi thấy thật cần thiết thâm nhập vào một thị trường nào đó mà không có đối tác mua franchise thuần tuý [15].
    17. 14 1.3. Vai trò của franchising hệ thống đối với các bên 1.3.1. Đối với bên bán franchise Thứ nhất, giải quyết vấn đề về nguồn vốn: trong franchising hệ thống, người bỏ vốn ra để mở rộng hoạt động kinh doanh chính là bên mua franchise. Điều này giúp cho bên bán franchise có thể mở rộng hoạt động kinh doanh bằng chính đồng vốn của người khác và giảm chi phí cho việc thâm nhập thị trường. Đồng thời việc phải bỏ vốn kinh doanh là động lực thúc đẩy bên mua franchise phải cố gắng hoạt động có hiệu quả, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho bên bán franchise. Thứ hai, nhân rộng mô hình kinh doanh một cách nhanh chóng: ngoài vấn đề về vốn, các yếu tố khác như yếu tố địa lý, con người, kiến thức và văn hoá địa phương cũng là những trở ngại không nhỏ đối với bên bán franchse khi muốn thâm nhập vào thị trường nào đó, đặc biệt ở các thị trường quốc tế. Franchising hệ thống sẽ giúp bên bán franchise chia sẻ những khăn này cho bên mua. Và một khi hệ thống kinh doanh được nhân rộng nhanh chóng thì giá trị của hệ thống cũng lớn mạnh theo. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang có tham vọng đưa thương hiệu của mình ra thế giới nhưng chưa đủ lực để đầu tư trực tiếp thì mô hình franchising hệ thống có lẽ là phù hợp nhất do không phải bỏ vốn mà lại bảo hộ và quảng bá được thương hiệu của mình. Thứ ba, thúc đẩy việc quảng bá thương hiệu: khi sử dụng franchising hệ thống, bên bán franchise sẽ tạo được những lợi thế trong việc quảng cáo, quảng bá thương hiệu của mình. Mở rộng kinh doanh và sự xuất hiện ở khắp nơi của hệ thống sẽ đưa hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng một cách dễ dàng hơn. Hoạt động quảng cáo càng hiệu quả, hình ảnh về sản phẩm, thương hiệu càng được nâng cao, giá trị vô hình của hệ thống chuyển nhượng càng lớn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho bên mua franchise khi sử dụng hệ thống của bên bán franchise. Và như thế cả bên bán và bên mua franchise hệ thống ngày càng thu được nhiều lợi nhuận từ việc áp dụng hình thức franchising hệ thống. Bên cạnh đó, vì chi phí quảng cáo sẽ được trải rộng cho rất nhiều cửa hàng nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ. Điều này giúp bên bán franchise xây
    18. 15 dựng được một ngân sách quảng cáo lớn. Đây là một lợi thế cạnh tranh mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng vượt qua Thứ tư, tối đa hoá thu nhập: khi bán franchising hệ thống, bên mua franchise phải trả tiền bản quyền thuê hệ thống và tiền phí để được kinh doanh với tên và hệ thống của bên bán franchise. Đồng thời bên mua franchise phải mua sản phẩm, nguyên liệu của bên bán franchise nhờ đó mà bên bán franchise có thể tối đa hoá thu nhập của mình. Thứ năm, tận dụng nguồn nhân lực: bên mua franchise là người bỏ vốn ra kinh doanh và đây là động lực để thúc đẩy họ làm việc tốt hơn. Vì khi người mua franchise là chủ nên họ có trách nhiệm hơn. Nhờ vậy, bên bán franchise tận dụng được nguồn nhân lực từ bên mua franchise. Ngoài ra, bên mua franchise có thể tiếp cận những địa điểm mà bên bán franchise không thể tiếp cận được vì nắm vững thông tin địa phương hơn bên bán franchise [13]. 1.3.2 Đối với bên mua franchise Thứ nhất, giảm thiểu rủi ro: việc mở cửa hàng, cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao. Lý do chính của tỷ lệ thất bại cao là do người quản lý là những người mới bước vào nghề không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho việc học hỏi các đặc trưng riêng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia vào franchising hệ thống, bên mua franchise sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí quyết thành công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên bán franchise đã tích luỹ được từ những lần trải nghiệm trên thị trường. Bên mua franchise không phải trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu, bên bán franchise sẽ hướng dẫn bên mua franchise các nguyên tắc chung. Thứ hai, được sử dụng hệ thống kinh doanh của bên bán franchise: ngày nay, trên thị trường có hàng ngàn sản phẩm và dịch vụ có cùng giá trị sử dụng nhưng được cung cấp bởi các nhà sản xuất khác nhau. Do đó, việc cố gắng tạo dựng một thương hiệu, hay một hệ thống kinh doanh nổi tiếng, được khách hàng
    19. 16 tin cậy và nhớ đến là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Khi sử dụng franchising hệ thống, bên mua franchise được sử dụng hệ thống kinh doanh sẵn có của bên bán franchise. Thứ ba, tận dụng các nguồn lực: bên mua franchise chỉ tập trung vào việc điều hành hoạt động kinh doanh, phần còn lại như xây dựng chiến lược tiếp thị, qui trình vận hành, chiến lược kinh doanh sẽ do bên bán franchise đảm trách và chuyển giao. Thứ tư, được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi: bên bán franchise luôn có những ưu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên mua franchise. Do đó, bên mua franchise được mua sản phẩm hoặc nguyên liệu với khối lượng lớn theo một tỷ lệ khấu hao đầy hấp dẫn. Giá của các sản phẩm, nguyên liệu đầu vào thấp sẽ là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn. Nếu trên thị trường có những biến động lớn như việc khan hiếm nguồn hàng thì bên bán franchise sẽ ưu tiên phân phối cho bên mua franchise trước. Điều này giúp cho bên mua franchise ổn định đầu vào, tránh được những tổn thất từ biến động thị trường. Thứ năm, dễ vay tiền ngân hàng: do xác suất thành công cao hơn, nên các ngân hàng thường tin tưởng và cho các doanh nghiệp mua franchise vay tiền. Thông thường các doanh nghiệp lớn trên thế giới đều chủ động đàm phá, thuyết phục ngân hàng ủng hộ các đối tác mua franchise tiềm năng của mình bằng cách cho vay với lãi suất thấp. Thứ sáu, được bên bán franchise giúp đỡ: người mua franchise lúc nào cũng nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ bên bán franchise trước và sau khi triển khai hệ thống kinh doanh. Đây là một lợi thế lớn, đặc biệt với những người mới tự kinh doanh lần đầu. Trong thời gian khai trương, bên mua franchise thường được hỗ trợ về đào tạo, thiết kế, chọn lựa địa điểm cửa hàng, nguồn hàng, tiếp thị, quảng cáo Sau khi hệ thống kinh doanh đi vào hoạt động, họ được tiếp tục đuợc hỗ trợ về nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là khâu tiếp thị, quảng cáo và tái đào tạo [12].
    20. 17 1.4. Nghiệp vụ franchising hệ thống 1.4.1 Đối với bên bán franchise: Một franchising hệ thống thành công, yêu cầu bên bán franchise phải tiến hành thực hiện tốt hàng loạt các nghiệp vụ sau: 1.4.1.1. Lựa chọn lĩnh vực kinh doanh Mô hình kinh doanh franchising hệ thống là việc triển khai lặp lại một hoạt động đã thành công, do đó bên bán franchise cần nắm chắc hoạt động trước khi muốn chuyển nhượng cho người khác. Lĩnh vực muốn triển khai hoạt động chuyển nhượng phải là một lĩnh vực mà ở đó khả năng mở rộng mô hình kinh doanh thành công là có thể thực hiện được và người ta phải xem xét đến các yếu tố như: Quy mô dự án: những dự án có quy mô lớn thường khó triển khai áp dụng dưới dạng franchising hệ thống. Bản chất của hoạt động: những hoạt động mà cần sự kết hợp giữa bí quyết và tài năng nhiều sẽ khó chuyển nhượng. Lợi nhuận của bên mua franchise: mua franchising hệ thống phải mang lại cho bên mua những khoản lợi hấp dẫn, nếu không thì sẽ có ít người muốn trở thành đối tác và khi đó chi phí bỏ ra để thiết lập hệ thống chuyển nhượng sẽ không thể khấu hao nhanh được. Xác định dịch vụ, sản phẩm và vị thế thương mại của nó: đây là đối tượng của chuyển nhượng và mọi yếu tố khác đều quay quanh đối tượng này. Doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường của sản phẩm dịch vụ dự kiến kinh doanh trên cơ sở phân tích các đối thủ cạnh tranh, sức hấp dẫn của ngành kinh doanh cùng các yếu tố môi trường kinh doanh khác để có thể đánh giá chính xác tiềm năng kinh doanh. 1.4.1.2. Xây dựng tính đồng bộ cho hệ thống chuyển nhượng Hình ảnh đồng bộ của một hệ thống chuyển nhượng là một trong những chìa khoá thành công khi xây dựng mô hình franchising hệ thống. Khách hàng phải thấy chất lượng và tiêu chuẩn của tất cả các của hàng trong cùng một hệ thống là giống nhau hay ít ra là tương đối giống nhau thông qua việc bên bán franchise xây dựng được bộ nhận dạng hệ thống. Khi xây dựng bộ nhận dạng hệ thống bên bán
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...