Luận Văn Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam

    Từ khi có Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, tiếp đến là hai Pháp lệnh về ngân hàng tháng 10/1990, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 10 năm đổi mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới chính sách lãi suất theo hướng từng bước tiến dần đến một chính sách lãi suất thị trường khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong hơn 10 năm qua đã trải qua các giai đoạn như sau:

    1. Giai đoạn lãi suất âm từ 1988 đến 1992.
    Đây là thời kỳ Việt Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng, lạm phát ở mức cao, lãi suất luôn trong tình trạng âm. NHNN quy định cụ thể lãi suất tiền gửi và cho vay. Lãi suất âm có đặc điểm là lãi suất tiền gửi thấp hơn lạm phát và lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động vốn và thấp hơn lạm phát.
    Lãi suất âm trong giai đoạn đó gây ra rất nhiều tiêu cực đối với nền kinh tế. Do lãi suất thực của tiền gửi là số âm nên không khuyến khích dân cư gửi tiền vào ngân hàng để thực hiện việc tập trung vốn cho đầu tư phát triển, gây áp lực đối với giá cả hàng hoá, do đó làm cho mức lạm phát ngày càng tăng. Nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả cho doanh nghiệp. Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng và ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.

    2. Từ tháng 10/1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương.
    Trước tình hình trên, NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát để người gửi tiền có lãi thực, vừa bảo toàn được giá trị tiền gửi, vừa có lãi và lãi suất tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi đảm bảo cho ngân hàng bù đắp được chi phí và có lãi.
    Trong giai đoạn này, NHNN công bố các mức lãi suất tiền gửi và cho vay bằng các quyết định hành chính để các NHTM thực hiện.
    Chính sách lãi suất dương đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường, bảo đảm lợi ích thực sự của ba bên: người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng, xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần thu hút và tập trung được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển, giảm áp lực đối với lạm phát.
    Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn có quá nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. NHNN vẫn còn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế: lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Do vậy, trong giai đoạn này, các TCTD chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn cho nền kinh tế mà không quan tâm nhiều đến việc cho vay trung và dài hạn để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.

    3. Giai đoạn vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.
    Theo Quyết định số 184/ QĐ-NH1 ngày 28/9/1993, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể.
    Lãi suất trong giai đoạn này có hai loại: lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước 1,8%/tháng và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là 2,1%/tháng.
    Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng.
    Trong thực tế, khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ làt ừ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/tháng.
    Trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa sàn (tiền gửi) và trần (cho vay) rất lớn, khoảng từ 0,7% - 1,0%/tháng, làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995, cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là lý do để cơ chế lãi suất trần ra đời và bãi bỏ lãi suất cho vay theo thoả thuận từ 01/01/1996.

     
Đang tải...