Thạc Sĩ Giải pháp nguồn vốn nhỏ cho người nghèo tại TP.HCM

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Giải pháp nguồn vốn nhỏ cho người nghèo tại TP.HCM
    - 1 –
    MỤC LỤC
    trang
    M荏 đ亥u 1
    Chương 1: Tổng quan về nghèo và người nghèo trong xã hội
    1.1/Những lý do nghiên cứu về nghèo 4
    1.2/ Một số quan điểm về người nghèo 5
    1.2.1/ Nghèo tuyệt đối 5
    1.2.2/ Nghèo tương đối 7
    1.2.3/ Cách nhìn nhận của chính người nghèo 8
    1.3/ Nguyên nhân của nghèo 9
    1.3.1/ Nguyên nhân chung trên thế giới 9
    1.3.2/ Nguyên nhân ở Việt Nam 10
    1.4/ Thực trạng của nghèo 11
    1.4.1/ Nghèo trên thế giới 11
    1.4.2/ Nghèo ở Việt Nam 14
    1.5/ Các chính sách giảm nghèo 19
    1.5.1/ Trách nhiệm của xã hội 19
    1.5.2/ Mục tiêu phát triển kinh tế toàn cầu 19
    1.5.3/ Quan điểm của Đảng, nhà nước Việt Nam 20
    1.6/ Mối quan hệ của nghèo và tín dụng 21
    1.6.1/Mối quan hệ của tín dụng và vòng luẩn quẩn của nghèo 21
    1.6.2/ kinh nghiệm một số tổ chức nước ngoài 23
    Chương 2 : Thực trạng nghèo và người nghèo ở TP Hồ Chí Minh
    2.1/ Chuẩn nghèo 27
    2.1.1/ Hình thành chuẩn nghèo 27
    2.1.2/ Chuẩn nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh 28
    2.2/ Tình hình chung 29
    2.2.1/ Danh sách hộ nghèo theo tiêu chí mới. 29
    2.2.2/ Đặc điểm của hộ nghèo 30
    2.2.3/ Nguyên nhân của nghèo 32
    2.2.4/ Những khó khăn thách thức 32
    2.3/ Xu hướng nghèo 33
    - 2 –
    2.4/ Thực trạng nguồn vốn nhỏ cho người nghèo 34
    2.4.1/ Thực trạng các chính sách của TP Hồ Chí Minh đối
    với người nghèo. 34
    2.4.2/ Hệ quả của việc tiếp cận nguồn vốn không chính thức 37
    2.4.3/ Quan điểm về nguồn vốn nhỏ 38
    2.5/ Đánh giá thực trạng về nguồn vốn nhỏ cho người nghèo tại
    Thành phố Hồ Chí Minh. 40
    2.5.1/ Ưu điểm 40
    2.5.2/ Khó khăn tồn tại 43
    2.5.3/ Nguyên nhân 44
    Chương 3 : Giải pháp ngu欝n v嘘n nh臼 cho ng逢運i nghèo t衣i thành
    ph嘘 H欝 Chí Minh
    3.1/ Quan điểm xây dựng giải pháp giảm nghèo ở thành phố
    Hồ Chí Minh 47
    3.1.1/ Mục tiêu giảm nghèo 47
    3.1.2/ Quan điểm xây dựng giảm nghèo 48
    3.1.3/ Kế hoạch triển khai 49
    3.2/ Giải pháp nguồn vốn nhỏ cho người nghèo ở TP Hồ Chí Minh 50
    3.2.1/ Giải pháp nguồn vốn vĩ mô 50
    3.2.2/ Giải pháp nguồn vốn vi mô 56
    3.3/ Giải pháp phát triển hoạt động các tổ chức tín
    dụng nhỏ 62
    3.3.1/ Phát triển các tổ chức hiện hành 62
    3.3.2/ Mở rộng chương trình tín dụng tiết kiệm 65
    3.3.3/ Xây dựng năng lực cho khu vực tài chính bán
    chính thức 65
    3.4/ Các giải pháp hỗ trợ khác giúp giảm nghèo 65
    3.4.1/ Hướng nghiệp đào tạo giải quyết việc làm 65
    3.4.2/ Hỗ trợ chính sách ưu đãi xã hội 66
    3.4.3/ Đầu tư cơ sở hạ tầng các xã nghèo trọng điểm 67
    3.5/ Kiến nghị 68
    Kết luận 71
    Tài liệu tham khảo 72
    - 3 –
    M荏 đ亥u
    1/ A員t v医n đ隠
    Xây dựng một xã hội không có người nghèo là điều mà các tổ chức, các nhà
    làm chính sách luôn luôn quan tâm. Trong tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hiệp
    quốc, kêu gọi xây dựng một xã hội hoà đồng và thịnh vượng dựa trên các giá trị: tự
    do, bình đẳng, đoàn kết, khoan dung và tôn trọng thiên nhiên. Quan niệm tự do ở
    đây không bó hẹp trong phạm vi thoát khỏi tình trạng nghèo đói mà trên cơ sở ghi
    nhận rằng, con người một khi còn phải đấu tranh cho sự sinh tồn thì không bao giờ
    có bình đẳng và tự do.
    Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời đã từng mơ ước về một nước Việt Nam không
    còn bị nghèo đói.Thế hệ của chúng ta có thể thực hiện được ước mơ đó của người,
    đồng thời đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Chúng ta có công nghệ, tri
    thức và nguồn lực để đạt được các mục tiêu to lớn đó. Tất cả những gì chúng ta
    cần, là ý chí và lòng quyết tâm phấn đấu cho một xã hội không có người nghèo.
    Thành công của Việt Nam trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo thường được
    coi như là, một ví dụ điển hình cho thấy, những gì chúng ta có thể đạt được tuy chỉ
    trong một thời gian ngắn. Tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam với con số ước tính là
    58% năm 1993 đã giảm xuống còn 24% năm 2004. Như vậy xét về trung bình quốc
    gia thì Việt Nam đã đạt được Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG) là giảm một nữa tỷ lệ
    người dân sống trong cảnh nghèo cùng cực. Song việc đạt được mục tiêu không có
    nghĩa Việt Nam đã hoàn thành công việc của mình. Hiện nay còn gần 33 triệu
    ngươì dân Việt Nam vẫn sống với mức thu nhập vừa trên chuẩn nghèo. Như vậy cứ
    10 người dân Việt nam thì 4 người có nguy cơ bị tái nghèo sau một cú sốc về kinh
    tế hay một trận thiên tai. Những cơn bảo liên tiếp (chanchu, Durian, Utor, ) trong
    năm 2006 vừa qua nhắc nhở chúng ta rằng, những biến cố bất ngờ có thể nhanh
    chóng đảo ngược những kết quả mà chúng ta thu được sau bao nhiêu năm lao động
    vất vả của những người nghèo, cận nghèo và của tất cả nguồn lực xã hội, trong
    việc giúp đỡ để vượt qua những khó khăn do các biến cố bất ngờ gây ra.
    - 4 –
    Tại Thành phố Hồ Chí Minh, là một thành phố năng động phát triển, tuy
    nhiên một bộ phận người nghèo, cả những người địa phương hay do nhập cư cũng
    là mối quan tâm của những nhà làm chính sách. Theo tiêu chí mới (2004-2010) thì
    có 7,99% hộ nghèo, có 92.193 hộ có thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm
    15
    .
    Chúng ta cần làm gì để thành phố chúng ta không còn hộ nghèo đến năm 2010 là
    một câu hỏi cần có rất nhiều giải pháp tổng hợp mới có thể giải quyết được.
    2/ Mục tiêu của đề tài
    -Đánh giá tình hình xoá đói giảm nghèo hiện nay
    -Giải pháp hiệu quả của tín dụng nhỏ cho người nghèo, hộ nghèo
    -Gợi ý các chính sách nhằm tạo điều kiện cho tài chính vi mô hoạt động tốt hơn,
    tác động giảm nghèo nhanh hơn
    3/ Đối tượng nghiên cứu
    Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi có
    nguồn vốn đầu tư lớn, phát triển mạnh trong cả nước, cũng là vùng chịu áp lực lớn
    của quá trình đô thị, di dân lớn nhất trong nước.
    Đối tượng là người nghèo, các tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại thành
    phố Hồ Chí Minh
    4/ Phương pháp nghiên cứu
    -Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu các quan điểm chính sách các mô hình xoá
    đói giảm nghèo.
    -Phương pháp thống kê mô tả kết hợp với so sánh phân tích tìm ra những mấu chốt
    chính của người nghèo, tìm ra giải pháp tốt hơn trong chính sách giảm nghèo.
    5/ Ý nghĩa của đề tài
    Giúp các nhà làm chính sách quan tâm hơn trong lĩnh vực cung cấp nguồn
    vốn nhỏ cho người nghèo, một công cụ hiệu quả giúp người nghèo vượt nghèo.
    Giúp những người làm công tác giảm nghèo có cái nhìn bao quát hơn, có
    chiều sâu hơn trong công tác tiếp cận với người nghèo.
    Mở ra một hướng nghiên cứu mới về mô hình lượng hoá tác động của tài
    chính vi mô đến giảm nghèo tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và giảm
    nghèo, thoát nghèo bền vững thông qua đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
    - 5 –
    Chương 1: Tổng quan về nghèo và người nghèo trong xã hội
    1.1/ Những lý do nghiên cứu về nghèo
    Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội cấp bách, mang tính toàn cầu,
    giải quyết vấn đề này không những mang tính nhân đạo mà còn là cơ sở đầu tiên
    để giải quyết những vấn đề khác của xã hội.
    T衣i điều 25 tuyên ngôn thế giới về quyền con người tại Đại hội đồng Liên
    Hợp Quốc thông qua 10-12-1948 viết :” Tất cả mọi người đều có quyền có mức
    sống đủ để bảo đảm sức khoẻ, sự sung túc của mình và của gia đình, nhất là đủ về
    ăn, mặc, chổ ở, chăm sóc y tế cũng như các dịch vụ xã hội cần thiết; Mọi người có
    quyền được an toàn khi thất nghiệp, bị bệnh tật, mất khả năng lao động, góa bụa,
    tuổi già hay trong các trường hợp khác mất khả năng duy trì sự tồn tại xuất phát từ
    hoàn cảnh và nằm ngoài ý muốn”, đây là một mục tiêu đầy tham vọng, mà cho
    đến nay mục tiêu này còn xa mới thực hiện được trên khắp thế giới. Trong số 6 tỷ
    dân trên hành tinh chúng ta, 3 tỷ người đang sống với mức dưới 2 USD /ngày, 1,2
    tỷ người đang sống dưới mức 1 USD/ngày. Trong 25 năm tới, dự đoán dân số thế
    giới sẽ tăng thêm 2 tỷ người, hầu hết trong số này là tại các nước đang phát triển,
    là gánh nặng của các nước nghèo.Trong sáu tỷ người hiện nay chỉ có ¼ có thể
    được hưởng các chương trình bảo trợ xã hội, dưới 5% có thể tự đối phó với rủi ro
    bằng của cải của mình. Do đó cũng dễ hiểu khi Liên Hiệp Quốc cho rằng đóng góp
    của mổi quốc gia vào chương trình trợ giúp người nghèo là trách nhiệm, lương tri
    của nhân loại.
    Việt nam trong những năm qua đạt rất nhiều thành tựu trong tăng trưởng
    kinh tế củng như thành quả trong công cuộc giảm nghèo. Tuy vậy,so với chuẩn
    nghèo của thế giới chúng ta còn có rất nhiều vấn đề phải quan tâm; một là chênh
    lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng, giữa 10% nhóm giàu nhất với 10% nhóm giàu
    nhất là 12.5 lần năm 2002 và tăng lên 13 lần vào năm 2004, trong khi năm 1993
    - 6 –
    chỉ có 4.3 lần. hai là Việt Nam là một trong các quốc gia nghèo, tình trạng nghèo
    lại càng nghiêm trọng hơn, với chuẩn nghèo mới, 200.000đ/người/tháng cho khu
    vực nông thôn và 260.000đ/người/tháng cho khu vực thành thị thì chúng ta có trên
    4,6 triệu hộ nghèo. Chuẩn này còn thấp hơn nhiều so với chuẩn nghèo trên thế giới
    là 1 USD/người/ngày; ba là số hộ nằm trên ngưỡng nghèo rất nhiều, nguy cơ tái
    nghèo rất cao chỉ cần có một biến cố thiên tai, dịch bệnh, Điều này nói lên tính
    thiếu bền vững trong vượt nghèo, cũng như các giải pháp giảm nghèo cần phải tiếp
    tục được quan tâm cả những hộ nghèo và vừa vượt nghèo.
    1.2/ Một số quan điểm về người nghèo
    1.2.1/ Nghèo tuyệt đối
    Nghèo đói có nhiều mặt, cho nên không có một định nghĩa duy nhất, mà tuỳ
    thuộc vào tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện, về thu nhập, điều kiện sinh
    hoạt, môi trường sống, thiếu tài sản, thiếu cơ hội tạo thu nhập, dể bị tổn thương, ít
    được ra quyết định, bị sỉ nhục, không được tôn trọng, sinh hoạt trong điều kiện
    thiếu vệ sinh, thiếu nước sạch, Một khái niệm mà các quốc gia trong khu vực
    Thái Bình Dương thống nhất là :”Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
    không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu
    cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của
    từng vùng mà những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.”
    11
    Theo ông Robert McNamara, khi làm giám đốc ngân hàng thế giới, đã đưa
    ra khái niệm nghèo tuyệt đối :” Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới
    ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu
    tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm
    cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí
    thức chúng ta.”
    Ngân hàng thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ ngày theo sức mua tương
    đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thoả mãn nhu cầu sống như là
    - 7 –
    chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các ranh giới
    nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định , từ 2 đô
    la cho châu Mỹ La Tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu và
    14,4 đô la cho những nước công nghiệp
    13
    .
    Theo quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2001 chuẩn
    nghèo giai đoạn 2001-2005 thì những hộ có thu nhập bình quân đầu người ở khu
    vực nông thôn miền núi, hải đảo từ 80.00đ/người / tháng trở xuống là hộ nghèo;
    Những hộ có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực đồng bằng từ 100.00đ/người
    / tháng trở xuống là hộ nghèo; Những hộ có thu nhập bình quân đầu người ở khu
    vực thành thị từ 150.00đ/người / tháng trở xuống là hộ nghèo.
    Chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 theo quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày
    8 tháng 7 năm 2005 thì những hộ thu nhập bình quân đầu người một tháng ở vùng
    nông thôn dưới 200.000đ được cho là nghèo, những hộ thu nhập bình quân đầu
    người một tháng ở vùng thành thị dưới 260.000đ được cho là nghèo.
    1.2.2/ Nghèo tương đối
    Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào
    hoàn cảnh của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp
    không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một
    số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
    Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
    vào cảm nhận của người trong cuộc. Nghèo tương đối chủ quan khi những người
    trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên
    cạnh thiếu việc cung cấp vật chất, thiếu thốn về tài nguyên phi vật chất ngày càng
    có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo thuộc văn hoá – xã hội, thiếu tham gia vào
    cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như
    là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
    - 8 –
    Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác
    nhau cho một xã hội. Một con số ranh giới của nạn nghèo dùng trong chình trị và
    công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình và của thu nhập ròng tương
    đương. Lý luận của những nhà phê bình cho biết con số này thể hiện rất ít về
    chuẩn mực sống của con người. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương
    án tính toán ranh giời nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối
    được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để
    có thể tham gia vào cuộc sống xã hội.
    1.2.3/ Cách nhìn nhận của chính người nghèo
    Quan niệm của chính người nghèo ở Việt Nam cũng như một số quốc gia
    khác trên thế giới về nghèo đói, trực diện hơn rất nhiều. Những đoạn trích từ báo
    cáo phát triển năm 2001 của WB dưới đây cho thấy cái mà người nghèo nhận thức
    về cuộc sống trong cảnh đói nghèo của mình:
    “Đừng hỏi tôi nghèo đói là gì,vì ông đã thấy nó ngay từ bên ngoài nhà tôi. Hãy
    quan sát ngôi nhà và xem nó có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ
    đạc trong nhà và những quần áo tôi đang mang trên người. Hãy quan sát tất cả và
    ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là đói nghèo đó.”
    13
    “Nghèo đói là sự hổ thẹn, cảm giác phải phụ thuộc vào người khác và buộc phải
    chấp nhận sự bạo hành, sỉ nhục, thái độ thờ ơ khi tìm kiếm sự giúp đỡ.”
    13
    “Cháu đi lấy nước một ngày bốn lần bằng một cái vò đất nung có sức chứa 20 lít.
    Đó là công việc nặng nhọc! .Cháu chưa bao giờ được đến trường vì cháu phải giúp
    mẹ trong công việc giặt giũ để kiếm đủ tiền, Cháu cũng phải giúp mẹ chợ búa,
    nấu nướng, đi kiếm củi và nhặt rác để đun. Nhà cháu không có buồng tắm, cháu
    phải tắm trong bếp, mỗi tuần một lần vào ngày chủ nhật, khi muốn đi vệ sinh
    cháu phải xuống một con mương chảy ra sông sau nhà, nếu có thể được thay đổi
    cuộc đời, cháu thật sự muốn được đến trường và có thêm quần áo”
    13
    - 9 –
    “Nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột
    nát; Không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học,
    ốm đau không có tiền đi khám chữa bệnh ”
    13
    “Nợ nần làm cho chúng tôi thức trắng đêm – cảm giác nợ nần thật là khủng kiếp.
    Tôi cảm thấy khiếp sợ mỗi khi có chủ nợ đến nhà đòi tiền, còn bản thân thì không
    thể trả được. Tôi cảm thấy xấu hổ vì lúc đó họ rất coi thường tôi.”
    11
    Nhìn chung, tất cả những quan điểm về nghèo đều phản ánh các khía cạnh
    chủ yếu:
    Một là,thu nhập thấp mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng
    dân cư.
    Hai là, không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
    cho con người.
    Ba là, thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng.
    1.3/ Nguyên nhân của nghèo
    1.3.1/ Nguyên nhân chung trên thế giới
    Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê là : chiến tranh, cơ
    cấu chính trị (thí vụ như chế độ diệt chủng, các qui định thương mại quốc tế không
    công bằng), cơ cấu kinh tế (phân bổ thu nhập không công bằng, tham nhũng, nợ
    quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền
    được), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai, dịch
    bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ.
    Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tương đối là thất nghiệp và thiếu
    việc làm, ngoài ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bổ thu nhập quá mất cân
    bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính.
    1.3.2/ Nguyên nhân ở Việt Nam
    Nguyên nhân khách quan là xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta trước
    khi “đổi mới” thấp, do trải qua hơn 30 năm chiến tranh và điều kiện tự nhiên
    - 10 –
    không thuận lợi, hàng năm Việt Nam phải chịu ít nhất trên dưới 10 cơn bảo, lũ lụt
    triền miên,
    Nguyên nhân chủ quan do: Một là, tác động của chính sách chi tiêu cho y tế,
    giáo dục và chính sách đầu tư phát triển kinh tế xã hội của nhà nước chưa cân đối
    giữa các cấp hành chính, giữa các vùng miền, giữa các ngành kinh tế: nông
    nghiệp, công nghiệp, nông thôn, thành thị; Hai là, do yếu tố chủ quan chính người
    dân, thiếu ý chí vươn lên, thiếu năng động trong việc tận vụng các nguồn lực để
    thoát nghèo, bê tha rượu chè, hút sách, cam chịu số phận.
    Theo số liệu điều tra năm 2004 của bộ lao động thương binh xã hội, nguyên
    nhân nghèo được người dân trả lời như sau:
    -Thiếu vốn sản xuất : 79%
    - Thiếu kiến thức sản xuất :70%
    -Thiếu thông tin về thị trường : 35%
    -Thiếu đất sản xuất : 29%
    -Ốm đau, bệnh tật : 32%
    -Đông con : 24%
    -Không tìm được việc làm : 24%
    -Rủi ro : 5,9%
    -Gia đình có người mắc bệnh tệ nạn xã hội : 1%
    1.4/ Thực trạng của nghèo
    1.4.1/ Nghèo trên thế giới
    Không phải chỉ có những nước nghèo mới có người nghèo mà ngay cả trong
    những nước phát triển vẫn có người nghèo tương đối cục bộ, trước khi nhìn thấy
    bức tranh chung của thế giới về người nghèo, chúng ta nhìn lại ba nước tiên tiến
    tiêu biểu.
    1.4.1.1/ Nghèo ở Aùo
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...