Tài liệu Giải pháp nào ứng phó với hiện tượng nước biển dâng trong quản lý phát triển các đô thị ven biển việ

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    GIẢI PHÁP NÀO ỨNG PHÓ VỚI HIỆN TƯỢNG NƯỚC BIỂN DÂNG
    TRONG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN CÁC ĐÔ THỊ VEN BIỂN VIỆT NAM




    Ngày 02/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 158/TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (CTMTQG), đã xác định nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị, toàn xã hội, các cấp, các ngành, các tổ chức, mọi người dân, là chuẩn bị các giải pháp ứng phó với những tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu đối với nước ta.


    Trong lĩnh vực QHXD và phát triển đô thị Việt nam, nhiệm vụ trên cần được quán triệt và khẩn trương tổ chửc triển khai thực hiện. Bài viết này đề xuất một số quan điểm và giải pháp ứng phó với hiện tượng nước biển dâng trong công tác QHXD các đô thị ven biển.


    1. Khái quát đặc điểm các đô thị ven biển


    Khu vực ven biển và hải đảo nước ta tập trung phần lớn các đô thị, điểm dân cư nong thôn, khoảng 130 đô thị các loại trong tổng số 750 đô thị, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật với khoảng 90 cảng biển, 2/3 tổng số sân bay của cả nước. Tại đây hội tụ những tài nguyên quan trọng và có giá trị phục vụ phát triển kinh tế xã hội: hệ thống cảnh quan sinh thái tự nhiên hấp dẫn của trên 3.200km bờ biển, các vịnh, bãi biển và hàng ngàn hòn đảo, các di sản thiên nhiên, văn hoá khu dự trữ sinh quyển thế giới, các hệ sinh thái vùng ngập nước, hệ sinh thái biển đảo, hệ thống di sản văn hoá, lịch sử dầy đặc gắn với truyền thống dựng nứơc và bảo vệ đất nước gồm hàng ngàn di tích văn hoá, lễ hội, lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, trong đó nhiều di sản có giá trị cấp quốc gia, quốc tế ( hiện có gần 1000 trong khoảng 3.800 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng quốc gia, 4 di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận, chưa kể nhiều di sản văn hoá được xếp hạng cấp địa phương trên địa bàn 29 tỉnh, thành phố vùng ven biển, hải đảo nước ta).


    Trong thời gian qua, các đô thị khu vực ven biển và hải đảo đã và đang phát triển mạnh mẽ về chất và lượng; hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế đang từng bước được phát triển và hoàn thiện. Phát huy lợi thế về tài nguyên và vị thế của khu vực biển đảo, nhiều đô thị trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại dịch vụ của vùng, cả nước và khu vực, trở thành cầu nối quan trọng giữa Việt Nam với thế giới trên con đường hội nhập kinh tế và hệ thống đô thị khu vực ven biển đã đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

    Công tác quản lý xây dựng đô thị từng bước được hoàn thiện, nâng cao chất lượng và hiệu quả, góp phần quản lý đô thị phát triển bền vững. Nội dung quy hoạch xây dựng đô thị đang từng bước phù hợp với đặc thù của đô thị ven biển thông qua việc tổ chức phân khu chức năng, phát triển không gian, xây dựng các công trình hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, các khu giải trí, công trình dịch vụ du lịch, khu cây xanh, bảo vệ cảnh quan tài nguyên môi trường đô thị và khu dân cư.


    2. Tồn tại và thách thức


    Trong quá trình phát triển đô thị, bên cạnh những kết quả, thành tựu, chủ yếu về đầu tư, đang nảy sinh những bất cập trong tiến trình phát triển nói chung và quản lý QHXD đô thị nói riêng, cộng với hậu quả của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, trong đó vấn đề nước biển dâng, tiến trình đô thị hoá khu vực ven biển nước ta phải đối mặt với những thách thức chủ yếu sau:


    2.1. Về phát triển đô thị:


    Một hiện tượng chung là tài nguyên phát triển như đất đai, cảnh quan, sinh thái ở một số khu vực trọng điểm phát triển đô thị và công nghiệp ven biển đang bị khai thác quá mức hoặc chưa bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững. Các hoạt động xây dựng và phát triển khu đô thị mới, khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng đô thị, thậm chí các khu du lịch đang theo hướng khai thác tối đa quỹ đất xây dựng hiện có, san lấp vùng ngập nước để tăng quỹ đất đầu tư xây dựng các khu đô thị mới, khu công nghiệp, đầu mối hạ tầng đang dẫn đến sự xuống cấp, biến đổỉ hệ cân bằng sinh thái khu vực ven biển. Một số dự án chỉ chú trọng đến mục đích kinh doanh đất đai, bất động sản, hoặc chưa thực sự quan tâm đến các yếu tố biến đổi khí hậu, cụ thể là nước biển dâng trong tương lai. Một số dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị có nguy cơ không bảo đảm mục tiêu dự kiến trước hiện tượng triều cường, nước biển dâng đang xay ra ngày một nhiều hơn. Hệ luỵ của tiến trình phát triển đó là các khu đô thị, khu du lịch, kể cả một số đô thị ven biển sẽ phải hứng chi hậu quả khó lường của hiện tượng nước biển dâng trong thế kỷ 21.


    Còn tồn tại thực trạng thiếu đồng bộ trong công tác quy hoạch phát triển gồm QHPT các ngành, quy hoạch sử dụng đất đai với quy hoạch xây dựng trên địa bàn đô thị cả nước nói chung, trong đó có khu vực ven biển; tình trạng chồng chéo trong khai thác và sử dụng tài nguyên sinh thái; công tác quản lý quy hoạch xây dựng và quy hoạch phát triển ngành; sự tản mạn trong hệ thống luật pháp và cơ chế, chính sách quản lý phát triển dẫn đến tình trạng thiếu các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù phát triển đô thị, điểm dân cư nông thôn trong điều kiện nước biển dâng, sự phối kết hợp liên

    ngành, liên vùng trong quản lý đầu tư xây dựng các công trình kinh tế, xã hội,
    phát triển hạ tầng đô thị .


    Một bất cập khác trong công tác lập Quy hoạch phát triển các đô thị nói chung, trong đó có quy hoạch xây dựng, quy hoạch phát triển đô thị khu vực biển đảo, là bên cạnh sự chồng chéo về nội dung chưa có giải pháp lồng ghép hiệu quả, chất lượng các quy hoạch phát triển, trong đó có quy hoạch xây dựng nhìn chung còn yếu. Các đô thị ven biển đã được lập, phê duyệt Quy hoạch chung, điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng với thời hạn đến năm 2020, một số đô thị có thời hạn quy hoạch đến năm 2030. Nội dung quy hoạch xây dựng đô thị chưa dự báo và có giải pháp ứng phó các biến động khi hậu, tổ chức không gian đô thị gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan và ứng phó nước biển dâng cho giai đoạn lâu dài hơn, bảo đảm tính trường tồn của tiến trình phát triển đô thị. Yếu tố này cũng được thể hiện mờ nhạt trong Điều chỉnh Định hướng Qui hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, mới xác định quan điểm chủ đạo trong phát triển đô thị Việt Nam là phát triển đô thị phải đảm bảo ổn định, bền vững và trường tồn, bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...