Luận Văn Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước trong cơ quan hành chính Quận 3, thành

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN NHÀ NƯỚC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

    1.1.
    Cơ quan hành chính trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
    Bộ máy Nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các cơ quan Nhà nước. Bộ máy nhà nước Việt Nam gồm ba hệ thống cơ quan chính: cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp.
    Pháp luật Việt Nam đặt vai trò của cơ quan lập pháp rất lớn, không chỉ thiết lập ra các hệ thống cơ quan khác mà còn là cơ quan chỉ đạo, giám sát chung. Tuy nhiên, cơ quan chấp hành của Quốc hội là Chính phủ (cơ quan hành chính nhà nước cao nhất), cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước và thực thi các văn bản mà Quốc hội ban hành. Hệ thống cơ quan đứng đầu là Chính phủ, thực hiện chức năng hành pháp là cơ quan hành chính nhà nước.
    Cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước Việc tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành chính Nhà nước không chỉ giúp chúng ta có thể nhận biết các cơ quan hành chính trong bộ máy Nhà nước mà còn giúp xác định vai trò của cơ quan hành chính Nhà nước với tư cách là chủ thể của pháp luật hành chính và là chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính.

    1.1.1.
    Khái niệm cơ quan hành chính
    Sự hình thành và phát triển của các cơ quan hành chính Nhà nước phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức quyền lực Nhà nước, đặc điểm phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, địa lý, dân cư, khoa học kỹ thuật . Nói gọn lại là tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý hành chính Nhà nước của từng giai đoạn của cách mạng.
    - Theo khái niệm tổng quát nhất: cơ quan hành chính Nhà nước là một loại cơ quan trong bộ máy Nhà nước được thành lập theo Hiến pháp và pháp luật, để thực hiện quyền lực Nhà nước, có chức năng quản lý hành chính Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoặc cơ quan hành chính Nhà nước là các cơ quan quản lý Nhà nước từ cấp TW đến địa phương, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước nhằm ổn định, duy trì bộ máy quản lý Nhà nước các cấp, đảm bảo ổn định chính trị xã hội và an ninh quốc phòng.
    - Việc phân loại các CQHCNN có thể dựa vào những căn cứ khác nhau:
    § Phân loại theo cách hành chính: có cơ quan TW (Chính phủ và các Bộ), cơ quan địa phương (UBND và cơ quan chuyên môn).
    § Phân loại theo thủ tục thành lập: có cơ quan do Quốc hội thành lập hoặc Hội đồng nhân dân thành lập, có cơ quan do Chính phủ, các Bộ, các UBND thành lập v.v.
    § Phân loại theo thẩm quyền: cơ quan có thẩm quyền chung (Chính phủ và các Bộ), có cơ quan có thẩm quyền riêng chỉ có chức năng và thẩm quyền quản lý thuộc phạm vi đối tượng ngành hoặc phạm vi nhất định như các Bộ, các Sở v.v. Việc phân chia theo thẩm quyền chỉ mang tính tương đối.
    § Phân loại theo hoạt động: có cơ quan quản lý ngành và cơ quan quản lý lĩnh vực công tác.
    1.1.2. Đặc điểm cơ quan hành chính
    Cơ quan hành chính Nhà nước là một loại cơ quan Nhà nước, là một bộ phận cấu thành bộ máy Nhà nước. Cơ quan hành chính Nhà nước mang đầy đủ đặc điểm của cơ quan Nhà nước nói chung. Đặc điểm chung ấy là cơ sở để phân biệt cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội. Đồng thời, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc thù so với cơ quan khác của Nhà nước như Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân.
    - Cơ quan Nhà nước có những đặc điểm sau:
    § Cơ quan do Nhà nước thành lập, chịu sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước thành lập ra mình và cơ quan hành chính cấp trên nhằm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng hoạt động chấp hành và điều hành bằng quyền lực Nhà nước.
    § Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền pháp lý, xuất phát từ quyền lực Nhà nước.
    § Tất cả các cơ quan Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau (quan hệ trên dưới, quan hệ ngang, quan hệ chéo) tạo thành một hệ thống thống nhất, theo thứ bậc. Đó là một hệ thống bộ máy quản lý phức tạp, nhiều đầu mối và biên chế lớn. Hạt nhân của các cơ quan Nhà nước là công chức.
    § Các cơ quan Nhà nước là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng phương pháp đơn phương quyết định – phương pháp quyết định một chiều.
    § Cơ quan Nhà nước là một hệ thống các cơ quan có nhiều đặc điểm khác nhau và được tổ chức khác nhau, thực hiện chức năng quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
    § Hoạt động của cơ quan Nhà nước được duy trì một cách khẩn trương, thường xuyên, liên tục.
    § Hệ thống cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tổ chức bảo đảm quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân bằng các chương trình kinh tế - xã hội phân phối một cách đồng đều mọi cơ hội cho mọi công dân. Để thực hiện nghĩa vụ hành chính cần có các phương tiện. Tuy nhiên, sử dụng phương tiện là để phục vụ nhân dân và phải tuân theo những điều kiện theo luật định. Các phương tiện hành chính bao gồm: công sở, công chức, công sản và phương tiện đặc quyền.
    - Ngoài những đặc điểm chung nói trên, đơn vị hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng đặc thù như sau:
    § Các cơ quan hành chính Nhà nước được thành lập để thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước, nghĩa là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. Hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động được tiến hành trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và để thực hiện pháp luật.
    § Hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối trực tiếp nhất đưa đường lối, chính sách, pháp luật vào cuộc sống.
    § Các cơ quan hành chính Nhà nước là hệ thống rất phức tạp, có số lượng đông đảo nhất, có mối liên hệ chặt chẽ, tạo thành một hệ thống thống nhất từ TW tới địa phương, cơ sở, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của một trung tâm thống là nhất Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất.
    § Thẩm quyền cơ quan hành chính Nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành. Thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước hoặc trong những quy chế .
    § Các cơ quan hành chính Nhà nước đều trực tiếp, hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực Nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp tương ứng và chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.
    § Hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước khác với hoạt động của cơ quan quyền lực, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động xét xử của Toà án. Hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước là đối tượng giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, của Toà án thông qua hoạt động xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế và hành chính. Các cơ quan hành chính Nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm xem xét và trả lời các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Toà án trong những trường hợp nhất định và trong thời hạn do luật định. Ngược lại, các văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thể là căn cứ pháp lý để Viện kiểm sát và Toà án thực hiện hoạt động kiểm sát và xét xử. Một số văn bản pháp luật của cơ quan hành chính Nhà nước trực tiếp điều chỉnh một số vấn đề về tổ chức nội bộ của Viện kiểm sát và Toà án.
    § Các cơ quan hành chính Nhà nước có đối tượng quản lý rộng lớn đó là những cơ quan, tổ chức, xí nghiệp trực thuộc, nhưng Toà án và Viện kiểm sát không có những đối tượng quản lý loại này.
    § Các cơ quan hành chính Nhà nước là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất là Luật hành chính.
    § Và cơ quan hành chính Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước dưới hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra .hoạt động của các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình.

    1.1.3.
    Vai trò của cơ quan hành chính trong sự phát triển kinh tế - xã hội
    Cơ quan hành chính là cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Hiến pháp của nước ta năm 1992 xác định Chính phủ là cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất; Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các ngành hoặc lĩnh vực trong phạm vi cả nước.
    UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên trong việc chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp nhằm để thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn, chỉ đạo điều hành hoạt động quản lý Nhà nước ở điạ phương, đảm bảo tính thống nhất trong quản lý của bộ máy hành chính Nhà nước từ TW đến địa phương.
    UBND được tổ chức theo ba cấp hành chính: tỉnh, thành phố, trực thuộc TW (gọi chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
    Bên cạnh các cơ quan công quyền thuộc hệ thống quản lý Nhà nước từ TW đến địa phương, còn có hệ thống các cơ quan, đơn vị như toà án, viện kiểm sát, công an, quân đội, các sở ban ngành, thực hiện nhiệm vụ giám sát, tố tụng, điều hành và bảo đảm ổn định chính trị, quản lý kinh tế, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng.
    Hoạt động của các cơ quan hành chính thuộc hệ thống chính quyền các cấp là hiện thân của thể chế một quốc gia, đóng vai trò giữ vững kỷ cương chính trị, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho phát triển kinh tế-xã hội. Nếu quốc gia nào có thể chế tốt, trong sạch và vững mạnh thì quốc gia đó sẽ là môi trường tốt của ngừơi dân trong việc hưởng thụ các dịch vụ hành chính, là môi trường tốt cho các tổ chức kinh tế, cá nhân kinh doanh thực hiện hoạt động của mình.

    1.2.
    Tài sản Nhà nước trong cơ quan hành chính
    Bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa một trong các nguồn lực của mình là tài sản quốc gia. Đó là tất cả những tài sản do các thế hệ thành viên của quốc gia tạo ra hoặc thu nạp được và các tài sản do thiên nhiên ban tặng con người. Trong phạm vi một đất nước, tài sản quốc gia có thể thuộc sở hữu riêng của từng thành viên hay một nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả thành viên trong cộng đồng quốc gia. Nhà nước là chủ sở hữu đối với những tài sản quốc gia thuộc sở hữu chung của tất cả thành viên (thường gọi là công sản và tài sản công)
    Khái niệm tài sản công là một khái niệm rộng và có tính tương đối, được hiểu theo những nghĩa khác nhau tùy thuộc vào quy định, mô hình quản lý của từng khu vực, xã hội và mô hình kinh tế.
    Tài sản công trong cơ quan hành chính là phương tiện có tầm quan trọng lớn lao phục vụ cho quá trình hoạt động, cơ sở để thực thi hiệu quả công vụ. Trong các CQHCNN, tài sản công bao gồm: trụ sở làm việc, phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị và các phương tiện làm việc khác.

    1.2.1.
    Khái niệm
    Tài sản công trong CQHCNN là một bộ phận quan trọng của công sản. Để hiểu cụ thể hơn về tài sản Nhà nước, tìm hiểu về công sản sẽ đem đến một cái nhìn tổng quát nhất.Trước hết, chúng ta tìm hiểu sơ qua về công sản.
    - Tùy theo những cách tiếp cận khác nhau mà có nhiều cách hiểu khác nhau về công sản. Một trong những khái niệm được nhiều người chấp nhận là: công sản là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành, tồn tại trong tự nhiên hoặc do con người sáng tạo ra mà quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt thuộc về Nhà nước.
    Ở Việt Nam: Trong các quy định của pháp luật cũng như trong thuật ngữ Từ điển chưa có khái niệm về công sản. Tại điều 17 Hiến Pháp năm 1992 đã ghi rõ những tài sản nào là thuộc sở hữu toàn dân. Tại điều 200 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã quy định các tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước. Tiếp đó tại các điều 239, 240, 241, 644 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã quy định cụ thể các tài sản khác thuộc sở hữu Nhà nước.
    Từ những căn cứ pháp luật hiện hành, chúng ta có thể khẳng định rằng:

    Công sản là những tài sản được đầu tư, mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, tài sản được xác lập quyền sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật, tài sản của các chương trình, dự án kết thúc chuyển giao, đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, núi, sông hồ nguồn nước,tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...