Báo Cáo giai pháp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Về thuật ngữ “nguồn nhân lực chất lượng cao”

    Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực hoàn toàn không phải là một vấn đề mới mẻ trong chiến lược, chính sách của mọi quốc gia. Đã từ rất lâu không chỉ ở các nước phát triển, mà cả ở nhiều nước đang phát triển, người ta không chỉ nhận thức được tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực, mà còn hiện thực hóa thành công các chiến lược, chính sách trên lĩnh vực này phụ vụ cho các mục tiêu nhiều mặt của quốc gia mình. Ở Châu Á, không chỉ Nhật Bản, mà những nước như Singapore, Hàn Quốc , từ lâu đã trở thành điển hình cho những thành công trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của đất nước thành vốn con người, cột trụ vững chắc đưa nước họ cất cánh bay lên, gia nhập hàng ngũ các nước phát triển.

    Đối với Việt Nam, ngay từ thời phong kiến đã có không ít vị minh quân biết coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp” Trong thời đại quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày nay, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng hơn vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, lấy đó làm “quốc sách hàng đầu” trong chiến lược quốc gia. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng đã chỉ rõ: Con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã định hướng cho phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: “Người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”. Tiếp tục thực hiện đường lối đúng đắn và khoa học đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ nay đến năm 2010 là “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức”1.

    Vậy thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao? Những tiêu chí đánh giá nó là gì?

    Tùy vào cách tiếp cận, có thể có những cách định nghĩa sau về nguồn nhân lực chất lượng cao:

    Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên hiệu quả, năng suất của người lao động: Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của lực lượng lao động, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc; từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của đơn vị nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.

    Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao nêu trên thiên về mặt định tính, giúp ta có thể trả lời một cách lý thuyết: nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người lao động có khả năng như thế nào trong lực lượng lao động. Tuy vậy, trong bối cảnh thực tế ở Việt Nam hiện nay, khi những tiêu chí đánh giá khả năng của người lao động chưa được lượng hóa thì dựa vào định nghĩa này, chúng ta sẽ rất khó khăn trong việc thống kê bộ phận lao động chất lượng cao.

    Định nghĩa nguồn nhân lực chất lượng cao dựa trên trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực: nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những người lao động qua đào tạo, đó là những người lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất (hệ thống giáo dục nghề nghiệp đào tạo lao động kỹ thuật và hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, sau đại học, đào tạo lao động chuyên môn) được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo. Bộ phận lao động này được gọi chung là lao động chuyên môn kỹ thuật.

    Tuy nhiên, nhìn vào định nghĩa trên chúng ta thấy rằng còn bộc lộ hai nhược điểm:

    Thứ nhất, nếu dựa vào định nghĩa này, những lao động không qua đào tạo chính quy nhưng có trình độ tay nghề rất cao, thậm chí họ còn làm được những công việc mà ít người có thể làm được (ví dụ như các nghệ nhân) lại không được coi là nhân lực chất lượng cao. Trong thực tế, lực lượng này có sự đóng góp rất quan trọng và không thể thay thế trong thị trường lao động chất lượng cao.

    Thứ hai, cũng dựa vào định nghĩa trên, bất kỳ lao động nào qua đào tạo cũng được coi là nhân lực chất lượng cao. Trên thực tế, có những lao động qua đào tạo, nhưng không đáp ứng được yêu cầu của công việc tương ứng với trình độ đào tạo, vì vậy không thể coi bộ phận lao động đó là nhân lực chất lượng cao.

    Những phân tích về hạn chế của hai định nghĩa nêu trên đã cho thấy cần phải đưa ra một định nghĩa chính xác, khoa học, vừa mang tính định tính, vừa mang tính định lượng về nguồn nhân lực chất lượng cao.

    Theo chúng tôi, nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm những lao động qua đào tạo, được cấp bằng, chứng chỉ của các bậc đào tạo và có khả năng đáp ứng nhữg yêu cầu phức tạp của công việc tương ứng với trình độ được đào tạo (trừ một số trường hợp đặc biệt không qua đào tạo); từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của mỗi đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung.

    Định nghĩa trên là một cách trả lời tương đối phù hợp cho những câu hỏi đã nêu về nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên để làm rõ hơn khái niệm “nguồn nhân lực chất lượng cao”, cũng như để dễ dàng hơn trong việc thống kê, phân tích và đánh giá lực lượng lao động này, cần thiết phải xây dựng những tiêu chí xác định ngưồn nhân lực chất lượng cao ở mức độ cụ thể hơn. Có thể bước đầu nêu ra các tiêu chí xác định nguồn nhân lực chất lượng cao như sau:

    Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có đạo đức nghề nghiệp, đó là lòng yêu nghề, say mê với công việc, có tính kỷ luật và có trách nhiệm với công việc. Cao hơn cả, đạo đức nghề nghiệp còn thể hiện ở mong muốn đóng góp tài năng, công sức của mình vào sự phát triển chung của dân tộc. Đây được coi là tiêu chí mang lại tính chất nền gốc trong quá trình xây dựng những tiêu chí các định nguồn nhân lực chất lượng cao.

    Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có khả năng thích ứng công nghệ mới và linh hoạt cao trong công việc chuyên môn. Tiêu chí này đòi hỏi nguồn nhân lực phải có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, để có khả năng thích ứng tốt với những công việc phức tạp và luôn thay đổi trong thời đại ngày nay. Điều này cũng có nghĩa là nguồn nhân lực chất lượng cao phải có bản lĩnh nghề nghiệp để không bị động trước những thay đổi nhanh chóng cả về nội dung và cách thức tiến hành công việc của thời đại toàn cầu hóa vá kinh tế tri thức.

    Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là lực lượng lao động có khả năng sáng tạo trong công việc.

    Sáng tạo bao giờ cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, “những gì là mới và sôi động của ngày hôm qua nhanh chóng trở thành cũ kỹ và tầm thường trong ngày hôm nay”1. Nếu không liên tục có những ý tưởng sáng tạo thì hoạt động của các tổ chức và suy rộng ra là của một dân tộc sẽ bị tê liệt. Vì vậy, tiêu chí này nhằm xác định nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung nhưng đặc biệt nhấn mạnh tới một lực lượng tinh túy nhất, đó là những nhà lãnh đạo, chủ doanh nghiệp và các nhà khoa học. Họ được gọi chung là nhân tài. Họ, “trước hết phải là những người có nhân cách, trí tuệ phát triển, có một số phẩm chất nổi bật mà rất ít người có, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có tư duy độc đáo, giải quyết các công việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả rất cao”2.

    2. Sự cần thiết khách quan của việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng vùng Đồng bằng sông Cửu Long

    Là một trong 6 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, ĐBSCL bao gồm 13 tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Hậu Giang, Long An, Bạc Liêu, Tiền Giang và thành phố Cần Thơ, dân số toàn vùng (2006) là 17,5 triệu người, bằng 21% dân số cả nước. Tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực đồng bằng Sông Cửu Long còn thấp tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm 83,25% trong đó tỷ lệ chung cả nước là 74,6%, trong đó có nhiều tỉnh tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm hơn 90%, như: Đồng Tháp, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng Trong khi đó tỷ lệ chung cả nước là 74,6%. Các chỉ số về giáo dục - đào tạo, dạy nghề đều thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước. ĐBSCL có 45,1% người từ 15 tuổi trở lên ở địa bàn nông thôn không hoàn thành cấp học nào; 32,87% tốt nghiệp tiểu học; 13,51% có bằng trung học cơ sở và có 5,43% có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học. Sinh viên đại học và sau đại học của đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm hơn 4% dân số ở độ tuổi 20 – 24. Trong lúc bình quân cả nước gần 1 triệu dân có 1 trường đại học thì ở đồng bằng sông Cửu Long 3,3 triệu dân mới có 1 trường đại học. Tại Hội nghị thông báo kết quả nghiên cứu khoa học Nam Bộ năm 2006 - 2008, Tiến sĩ Nguyễn Thị Quy (Viện Nghiên cứu giáo dục) đã công bố ÐBSCL có tỷ lệ nhập học thấp nhất nước (59,6%), thấp hơn cả vùng Ðông Bắc và Tây Nguyên. Hiện tại chỉ gần 20% lao động công nghiệp vùng đồng bằng Sông Cửu Long có trình độ tay nghề và chuyên môn hoá cao, khoảng 17% lao động có tay nghề đang trực tiếp sản xuất, cơ cấu lao động chưa hợp lý, tỷ lệ giữa thầy và thợ chênh lệch nhiều. Các chỉ số về giáo dục - đào tạo, dạy nghề đều thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Sau nhiều năm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa, một trong những vấn đề bức xúc, đồng thời là một thách thức, đó là vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho sự phát triển nhanh, mạnh và bền vững của vùng kinh tế này. Tại Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về Phát triển giáo dục, phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 đã xác định mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 là: “Nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực của đồng bằng sông Cửu Long để phát huy sức mạnh của vùng, tạo bước đột phá trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng đồng bằng sông Cửu Long phát triển toàn diện, bền vững, trở thành một vùng kinh tế trọng điểm của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao”3.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...