Tiểu Luận Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - NHNN & PTNT Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - NHNN & PTNT VN


    MỤC LỤC​

    LỜI NÓI ĐẦU



    Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua hơn 10 năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên bước đầu khẳng định được uy tín, chinh phục đựơc khách hàng chiếm lĩnh được thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất do đó cần thiết phải có một lượng vốn lớn mà các ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp , các thành phần kinh tế một cách có hiệu quả.


    Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước và cấp kinh doanh là các ngân hàng thương mại. Cùng với việc triển khai thực hiện pháp lệnh ngân hàng ở nước ta trong thời gian qua đã tạo ra những chuyển biến rõ nét cả về tổ chức, hoạt động và trình độ nghiệp vụ của hệ thống ngân hàng góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền . Các tổ chức tín dụng hình thành mạng lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh . Nghiệp vụ ngân hàng cũng được đổi mới và từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ và thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng ngân hàng đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, phát triển thị trường ngoại hối.


    Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời kỳ mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp lý đang dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp nhiều khó khăn nhất là chất lượng tín dụng chưa cao mà biểu hiện là nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Việc phân tích một cách chính xác, khoa học các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là một nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên bức xúc và cần thiết đối với hệ thống Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có thị trường tín dụng chủ yếu là khu vực nông thôn.


    Trước tình hình trên, là một sinh viên khoa ngân hàng - tài chính đang thực tập tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, em đã quyết định chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam”.


    Em hy vọng rằng bài viết của mình sẽ góp phần đẩy lùi những khó khăn cản trở trong công tác tín dụng, đưa hiệu quả tín dụng ngày càng tốt hơn, tạo đà cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Sở phát triển trong nền kinh tế thị trường.


    Bài viết của em được chia làm 3 chương:


    Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại.


    Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.


    Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam.

    Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.






    CHƯƠNG I: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI



    I - TÍN DỤNG VÀ CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG


    1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân :

    Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.

    Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

    Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.

    Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
     
Đang tải...