Luận Văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    LỜI NÓI ĐẦU 1
    Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại 3
    1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng của ngân hàng thương mại 3
    1.1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng 3
    1.1.1.1. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân 3
    1.1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng 5
    1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế 7
    1.1.2.1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 7
    1.1.2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển 8
    1.1.2.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ 9
    1.1.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 9
    1.1.2.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển 10
    1.1.2.6. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối ngoại 11
    1.2. Tổng quan về chất lượng tín dụng ngân hàng 11
    1.2.1. Khái niệm về chất lương tín dụng 11
    1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng 12
    1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng 13
    1.2.3.1. Chỉ tiêu về dư nợ 13
    1.2.3.2. Hiệu suất sử dụng vốn vay 14
    1.2.3.3. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ 14
    1.2.3.4. Vòng quay vốn tín dụng 14
    1.2.3.5. Chỉ tiêu lợi nhuận 15
    1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng 15
    1.2.4.1. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế 15
    1.2.4.2. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý 16
    1.2.4.3. Nhóm nhân tố về phía ngân hàng 17
    1.2.4.4. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng 18
    1.2.4.5. Các yếu tố tự nhiên 19
    Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam - Techcombank 20
    2.1. Giới thiệu chung về ngân hàng kỹ thương Việt Nam 20
    2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 20
    2.1.2. Tổ chức bộ máy 22
    2.1.3. Chức năng và nhiệm vụ 23
    2.1.4. Tình hình kinh doanh của ngân hàng những năm gần đây 25
    2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam trong những năm gần đây 28
    2.2.1. Các chỉ tiểu đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam 28
    2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam 33
    2.2.2.1. Dư nợ theo thời gian cho vay 35
    2.2.2.2. Dư nợ theo thành phần kinh tế 36
    2.2.2.3. Dư nợ theo ngành kinh tế 37
    2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam 38
    2.3.1. Những kết quả đạt được 38
    2.3.2. Những tồn tại và hạn chế 39
    Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam 40
    3.1. Định hướng cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới 40
    3.1.1 Công tác huy động vốn 40
    3.1.2 Công tác tín dụng 40
    3.1.3 Công tác dịch vụ 40
    3.1.4 Công tác kiểm tra, kiểm soát 40
    3.1.5 Công tác quản trị điều hành 41
    3.1.6 Công tác khác 41
    3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng 41
    3.2.1 Giải pháp trực tiếp 41
    3.2.2 Giải pháp hộ trợ 46
    3.3. Một số kiến nghị 47
    3.3.1 Kiến nghị với nhà nước 47
    3.3.2 Kiến nghị đối với ngân hàng 47
    3.3.3 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vay vốn 48
    KẾT LUẬN 49


    LỜI NÓI ĐẦU
    Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước đất nước ta đang từng bước hội nhập kinh tế thế giới. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giành được những thành tựu to lớn như kiềm chế lạm phát, nhịp độ tăng trưởng về tổng sản phẩm trong nước đã vượt kế hoạch đề ra, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta còn những mặt chưa làm được như: Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước về kinh tế một số ngành còn lỏng lẻo, chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến Đảng và Nhà Nước ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới là tiến hành CNH- HĐH nền kinh tế đất nước. Muốn vậy, chúng ta cần phải có nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời có sự nâng cấp mở rộng sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế từ đó tạo đà cho sự phát triển. Vấn đề chất lượng tín dụng không phải chỉ mối quan tâm của riêng ngân hàng mà còn là vấn đề quan tâm của cả nền kinh tế. Hiệu quả hay nói cách khác chất lượng tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố thuộc về ngân hàng nhưng cũng có yếu tố thuộc về khách hàng, các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như: chính trị, tình hình phát triển kinh tế
    Tuy nhiên, có nguồn vốn thôi chưa đủ phải biết sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó mới góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng kế hoạch, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hay nói một cách khác, chỉ khi nào mở rộng tín dụng gắn liền với nâng cao chất lượng tín dụng thì nguồn vốn mới phát huy được vai trò tích cực của mình.
    Mặc dù vậy, trước những biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường thì chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, nhằm góp phần an toàn trong hoạt động Ngân hàng nói chung cũng như của ngân hàng kỹ thương Việt Nam nói riêng. Đây là nguyên nhân mà em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam”
    Nội dung của chuyên đề của em được chia thành ba chương chính sau:
    Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
    Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam - Techcombank
    Chương 3: mốt số Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng kỹ thương Việt Nam
    Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng do thời gian thực tập và kinh nghiệm thực tiễn của em còn nhiều hạn chế nên báo cáo này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, Ban Giám đốc ngân hàng kỹ thương Việt Nam để đề tài được hoàn thiện hơn.

    Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
    1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng của ngân hàng thương mại
    1.1.1. Tín dụng và các hình thức tín dụng ngân hàng
    1.1.1.1. Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân
    Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
    Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo. Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
    Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh.
    Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
    Vậy tín dụng Ngân hàng là gì ?
    " Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng và bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán".
    Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
    Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu người thiếu vốn và những người thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình thành nên: Một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và phía bên kia là những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Do đó các Ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
    1.1.1.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
    Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của NHTM mà có cách phân loại tín dụng như sau:
    * Nếu căn cứ vào thời hạn, tín dụng chia thành các loại sau đây:
    - Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn từ 12 tháng trở xuống.
    - Tín dụng trung hạn: Có thời gian từ 1 năm đến 5 năm ( có nơi quy định là 7 năm).
    - Tín dụng dài hạn: Có thời hạn từ 7 năm trở lên ( có nơi quy định là 7 năm).
    Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hay thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng được thu về.
    Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thường gắn liền với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ sung vào tài sản lưu động, bởi tài sản lưu động thường có vòng quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy, trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả số tiền vay cho ngân hàng.
    Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có thể tính được hết các khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Do vậy, mức độ rủi ro của các khoản tín dụng có thời gian lớn đối với ngân hàng sẽ tăng lên. Điều này một phần lý giải tại sao lãi suất các khoản vay dài hạn thường cao hơn các khoản vay ngắn hạn.
    Phân loại Tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với các NHTM. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và sinh lợi của một NHTM.
    * Phân loại theo hình thức cho vay
    Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
    - Chiết khấu là việc NHTM ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi một phần thu nhập của ngân hàng để sỏ hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải là nhà cho vay đối với chủ sở hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trái quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một khoản tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất được ấn định trước được coi như là hoạt động tín dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của ngân hàng hơn hoạt động tín dụng.
    - Cho vay được hiểu là ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng với sự cam kết khách hàng trả cả gốc lẫn lãi trong khoảng thời gian xác định với mức lãi suất cam kết. Cho vay được gọi là một trong các nghiệp vụ truyền thống của NHTM, nó được hình thành ngay từ buổi sơ khai của các ngân hàng, và được đánh giá là hoạt động sinh lợi cao nhất cho các NHTM.
    - Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thục hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng vẫn thu được lời từ khách hàng nhờ uy tín của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản ngoại bảng của ngân hàng. Tuy nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
    - Cho thuê đó là nghiệp vụ ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải hoàn trả tài sản hoặc có thể mua lại của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá cao, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có chuyên môn về nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công nghệ.
    * Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo
    Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây;
    - Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản đảm bảo thuộc sở hưu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng không trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không thanh toán được thì ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dung đảm bảo được áp dụng với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay khách hàng có tài chính không tốt.
    - Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình khách hàng có nhu cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại tín dụng này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có mối quạn hệ tốt và lâu dài đối với ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh, có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không có tài sản đảm bảo.
    Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, các NHTM còn sử dụng các tiêu thức khác tuỳ theo đối tượng cho vay, tính đa dạng của sản phẩm hay tính chuyên môn hoá trong ngành để phân chia ví dụ như: Tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, tín dụng sản xuất, tín dụng tiêu dùng
    1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
    1.1.2.1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
    Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay Ngân hàng đã biến mọi nguồn ngoại tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
    Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các Ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức thu được của các Ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt động tín dụng và các dịch vụ của Ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của Ngân hàng. Vậy Ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của Ngân hàng. ở đây các Ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có cơ hội không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể thiếu vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các Ngân hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt khác phải đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng.
    Thông qua công tác tín dụng, Ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các Doanh nghiệp, các Ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương án sản xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của Doanh nghiệp .
    1.1.2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển
    Thực tế cho thấy bất kỳ một Doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản xuất kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Doanh nghiệp đòi hỏi các Doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra?
    Và tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của Doanh nghiệp. Thông qua việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho các Doanh nghiệp.ở nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều nước trên thế giới, do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với sự phát triển của Xã hội đòi hỏi các Ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các Doanh nghiệp. Muốn vậy các Ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát triển của các thành phần kinh tế.
    1.1.2.3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ
    Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các Ngân hàng đã huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi việc NHNN phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu vay mà NHNN Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
    1.1.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
    Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng trước khi cho vay Ngân hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay Ngân hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ mục đích và khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn vay được vốn các Doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những công tác trên giúp cho Doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và Ngân hàng có khả năng thu hồi được vốn.
    Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với Ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn Ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà Ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết thì Ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy các đơn vị sản xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín dụng.
    1.1.2.5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...